Tin văn nghệ
Cụ giáo già và ký ức về Vũ Trọng Phụng
08:50 | 16/05/2017

Cụ Nguyễn Bá Đạm năm nay đã ở tuổi 95. Cụ nổi danh một thời vì cụ là nguyên mẫu của hơn 200 bức tranh của danh họa Bùi Xuân Phái. Ở Việt Nam, cụ cũng là một trong những người hiếm hoi sưu tập tiền cổ và am hiểu sâu sắc về tiền cổ. Dù tuổi đã cao, lưng đã còng, tóc đã bạc nhưng những ký ức về một thời đã qua thì vẫn vẹn nguyên trong trí nhớ minh mẫn của cụ.

Cụ giáo già và ký ức về Vũ Trọng Phụng
Cụ Nguyễn Bá Đạm.
Nhân dịp này, cụ giáo Nguyễn Bá Đạm đã có cuộc trò chuyện cùng chúng tôi về hai sự kiện: đám cưới và đám tang của nhà văn Vũ Trọng Phụng, một người hàng xóm sinh thời thân thiết với cụ, tại làng Giáp Nhất, Thanh Xuân, Hà Nội.
 
Đám cưới Vũ Trọng Phụng
 
Giọng nói của cụ giáo Nguyễn Bá Đạm đôi khi lạc đi vì xúc động khi kể lại câu chuyện của người hàng xóm tài hoa bạc mệnh. Người đã ra đi khi tuổi đời còn quá trẻ (27 tuổi) và đã để lại một gia tài văn chương đồ sộ với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết và ký sự xã hội.
 
Khi bà Vũ Mỵ Nương, tên ở nhà là Gái (sau này là vợ của nhà văn Vũ Trọng Phụng) được hơn 1 tuổi thì ông cụ thân sinh của bà qua đời, để lại 4 bà vợ và 16 người con vừa trai vừa gái. Bà Nương là con gái út bà thứ tư nên được nuông chiều, chỉ quanh quẩn trong nhà. Ở nhà thường có hai anh em, anh Quy hơn em 3 tuổi, hay bắt nạt em.
 
Năm đó, tầm 8 tuổi, anh Quy nghịch dại, vì một xích mích nhỏ mà giữa buổi trưa khi em đang ngủ, anh dốc những hạt cườm vào lỗ tai em. Em choàng dậy nghe trong tai ùng ục rồi khóc ràn rụa. Mọi người đưa em ra chợ Mọc, chỗ bác Hàn làm nghề cắt tóc dùng đồ lấy ráy tai, gắp những hạt cườm ở trong tai ra, nhưng không thể hết vì có nhiều hạt lọt vào sâu bên trong, tai bị ù, từ đó bà hơi nghễnh ngãng.
 
Lớn lên, Vũ Mỵ Nương là một người cần cù, chịu khó, hay lam hay làm, ăn nói dịu dàng nên ai cũng quý mến. Bà cũng yêu văn học và thuộc một số bài Đường thi. Nhiều người có ý muốn dạm hỏi bà làm vợ nhưng bà đều tìm cách khước từ. Bà từng ước mơ có người bạn trăm năm phải là người giỏi văn chương chữ nghĩa. Khi ấy, bà cả Lượng có người anh là ông Phạm Xuân Tiến làm ở hiệu thuốc tây Chassagane phố Hàng Khay thân quen với Vũ Trọng Phụng vì ở cùng phố Hàng Bạc, chỉ cách nhau trên chục nóc nhà.
 

Nhà văn Vũ Trọng Phụng.
 
Biết rõ hoàn cảnh nhà Vũ Trọng Phụng, bố là Vũ Văn Lân người huyện Mỹ Văn - Hưng Yên làm thợ điện ở xưởng sửa chữa ô tô Boillot ở phố Ngô Quyền bây giờ. Mẹ là bà Phạm Thị Khách quê ở Chèm, làm nghề khâu vá thuê. Năm 24 tuổi bà đã góa bụa, khi đó Vũ Trọng Phụng, tên ở nhà là Tý, mới 7 tháng tuổi, ở vậy nuôi con ăn học đến khi qua đời.
 
Vào những năm đầu thập kỷ 30, Vũ Trọng Phụng là một thanh niên đội khăn xếp, áo the đi làm thư ký ở nhà Gôđa, rồi nhà in Viễn Đông, sau đi hẳn vào con đường văn nghiệp. Truyện ngắn đầu tay "Chống nạng lên đường" của ông đăng ở Ngọ báo của Bùi Xuân Học (Hiện gia đình nhà văn vẫn còn giữ được hai thẻ nhà báo, một ở Báo Nông công thương của Phạm Chấn Hưng cấp năm 1932, một ở Báo Nhật tân của Đỗ Văn cấp năm 1933). Đến năm 1939, không kể truyện ngắn, ông Phụng in được 18 cuốn tiểu thuyết, phóng sự và kịch, tiếng tăm lừng lẫy. Tuy nghèo nhưng bạn văn rất quý trọng ông.
 
Như là duyên kiếp ba sinh, buổi đầu gặp nhau, Vũ Trọng Phụng và Vũ Mỵ Nương đã thấy tâm đầu ý hợp. Vào dịp cuối năm, Vũ Trọng Phụng ngỏ ý muốn cưới Vũ Mỵ Nương làm vợ. Đó là ngày 22 tháng Chạp năm Đinh Sửu. Cỗ cưới ăn hai ngày, mỗi ngày một ngả lợn, xếp vài chục mâm.
 
Hôm đưa dâu về nhà chồng, ít ra cũng phải làm một lợn nữa. Người được mời đến ăn, mang đến mừng bao chè, chai rượu hay đồng bạc hoa xòe, phong bao vào giấy hồng điều. Mới sáng ra, trẻ con trong làng đã tụ tập bên bờ ao đình, nhìn sang con đường Láng, chờ xem ô tô đám cưới. Đến gần trưa, một đoàn 10 chiếc ô tô sơn đen đi theo hàng một, vượt qua cầu Mọc, rẽ trái, về làng Giáp Nhất.
 
Tới cổng làng, họ nhà trai xuống xe, người mặc Âu phục, người mặc quốc phục, trong đó có chú rể đội khăn, mặc áo đoạn, đi giày hạ. Người lớn, trẻ con trong làng ùa ra xem. Vũ Trọng Phụng người xương xương, mong manh, mắt nhỏ, trán nở và cao, miệng có quay ở hai bên mép, vai hơi ngang. Ông có cái nhìn tinh anh, hóm hỉnh. Trong số người di cùng với chú rể, có nhiều văn nhân.
 
Sau những thủ tục lễ nghi, nhà trai xin phép đón cô dâu. Hai họ đi bộ tới cổng làng mới lên ô tô. Hơn nửa giờ sau, đoàn xe lăn bánh ở bên số chẵn phố Hàng Bạc, trong tiếng pháo nổ ran, dân hàng phố kéo đến xem đông nghịt, đứng kín cả vỉa hè.
 
Chuyện trò hồi lâu, nhà gái xin cáo lui. Riêng các văn hữu còn uống rượu, trò chuyện đến khuya mới chịu ra về. Trong "Sổ ghi ơn" của Vũ Trọng Phụng để lại, có ghi rõ những người mừng cưới hoặc giúp công việc cưới:
 
- Nguyễn Tuân đi thuê ô tô ở Hàng Bông.
 
- Ngô Tất Tố và Phạm Cao Củng mừng bức trướng có 4 chữ vàng "Hồng diệp thi thanh".
 
- Ông Nguyễn Văn Da, chủ nhiệm Báo Phụ nữ thời đàm mừng đôi câu đối: "Lan thất vinh khan hào phượng vĩ/ Hương đường chính ỷ dẫn quy linh".
 
- Hai anh em nhà thơ Nguyễn Giang, Nguyễn Nhược Pháp mừng hai giỏ hoa thủy tiên đặt trong cốc thủy tinh.
 
- Vũ Đình Liên mừng một hộp thuốc lá Lucky.
 
- Ông giáo Pha mừng cây đàn nguyệt và 3 đồng Đông Dương.
 
- Bà cả Viên, chị ruột cô dâu, mừng nhiều nhất (7 đồng Đông Dương) để nộp tiền cheo cho làng...
 
Sau lễ cưới linh đình, bà Phụng (gọi theo tên chồng) mở một hiệu sách nho nhỏ ở đầu phố Hàng Nón. Họ sinh được một cô con gái đặt tên là Vũ Mỵ Hằng. Một thời gian sau, Vũ Trọng Phụng bỏ căn gác hẹp, chuyển về ở nhà số 73 Cầu Mới, gần Ngã Tư Sở. Nhưng bệnh lao đã ở cuối thời kỳ thứ ba, về nơi ở mới được nửa tháng, nhà văn lớn của nền Văn học hiện đại Việt Nam đã ra đi vào ngày 13-10-1939. Ở tuổi 27 với tác phẩm cuối cùng "Trúng số độc đắc" để lại người vợ trẻ và con gái bé bỏng chưa tròn một năm tuổi.
 
Đám tang Vũ Trọng Phụng
 
Trong ký ức của cụ giáo Đạm, đó là một ngày trời nắng chang chang như đổ lửa. Mới sáng ra mà cái nắng như giữa mùa hè. Một cỗ xe tang do hai con ngựa kéo lặng lẽ bước đi từ số nhà 73 phố Cầu Mới đến nghĩa trang Quảng Thiện (ở khu vực Thanh Xuân hiện nay). Theo sau là khoảng 300 người thân thiết và bạn hữu là các nhà văn, nhà báo.
 
Con gái bé bỏng của Vũ Trọng Phụng được người ta đội cho một cái mũ mấn khâu bằng vuông vải trắng. Bàn tay của cô bé quờ quạng như muốn giật ra. Bên cạnh hố huyệt đã được đào từ chiều hôm trước để chôn nhà văn là mộ của thi sĩ Tản Đà cũng nằm gần đấy, chỉ cách chừng mười lăm bước.
 
Cụ giáo Nguyễn Bá Đạm vẫn nhớ như in cảnh tượng trước mắt mình về ngày hôm ấy. Linh cữu nhà văn vừa được từ từ hạ xuống thì người vợ nhà văn vì quá thương chồng đã lăn xuống huyệt. Người ta phải ra sức kéo lên. Mái tóc xõa xượi, chân run lẩy bẩy, vợ nhà văn đi không vững, phải hai người xốc nách mới lê nổi từng bước.
 
Nhà văn Vũ Trọng Phụng một đời vất vả. Mất cha từ bé, được người mẹ chăm lo cho ăn học nên người. Ông học ở trường Tiểu học Hàng Vôi. Lớn lên theo học trường Bưởi. Nhưng chỉ được một năm, vì nghèo ông đã phải nghỉ học để đi làm lấy tiền nuôi bà và nuôi mẹ. Đi làm đánh máy ở nhà in Viễn Đông được một thời gian thì bị chủ sa thải vì trong giờ làm việc vẫn mải đọc sách.
 
Âu cũng là cái nợ với văn chương. Cái nghề bạc bẽo, không danh vọng, địa vị nhưng phù hợp với lý tưởng cao đẹp mà cả đời ông ấp ủ. Ông đã đi vào đời sống với tên gọi “Ông vua phóng sự đất Bắc”.
 
Trong lễ tang nhà văn Vũ Trọng Phụng, nhà thơ Lưu Trọng Lư đọc điếu văn, Bùi Huy Phồn đọc đôi câu đối ghép từ các tác phẩm của ông: “Cạm bẫy người” tạo hóa khéo căng chi, qua “Giông tố” tưởng nên “Số đỏ”/ “Số độc đắc” văn chương vừa túng thế, nỡ “Dứt tình” “Không một tiếng vang”.
 
Mọi người ném xuống mộ nhà văn những nắm đất to nhỏ, chỉ trong khoảnh khắc ngôi mộ đã cao dần và được đắp cho chắc chắn. Những thỏi vàng bồ cũng được rắc lên. Lan Khai và Phùng Tất Đắc suốt mấy ngày bận rộn lo việc tang ma cho bạn, nay lại lanh lẹn vác các vòng hoa đặt lên mộ. Phạm Cao Củng mang theo máy ảnh chụp một vài kiểu. Những nén nhang từ từ cháy, làn khói cuộn dần lên theo gió.
 
Cụ Đạm nói trong ánh mắt rưng rưng: Mọi người nghiêng mình, cúi đầu, hai tay chắp vái từ biệt Vũ Trọng Phụng lần cuối. Lúc đó là 9 giờ 45 phút sáng Chủ nhật 15-10-1939.
 
Sau nhiều lần chuyển mộ nhà văn, do những biến động về sử dụng đất đai ở khu vực Nhân Chính, Thượng Đình, bây giờ, nhà văn Vũ Trọng Phụng được an nghỉ ngay trong khu vườn của gia đình. Trong khuôn viên rộng chừng 500 mét vuông được chia làm hai khu, khu mộ là nơi an tọa của nhà văn Vũ Trọng Phụng cùng mẹ ông, vợ ông, của con gái và cháu ngoại.
 
Khu mộ khang trang, tĩnh lặng dưới những rặng cây xanh mát phủ bóng an bình. Đứng ở đó, bỗng thấy những gian nan của cả một thời đại ông đã sống đầy thương đau bạo bệnh dường như đã chìm vào dĩ vãng để nhường lại cho nơi ông yên nghỉ đầy tiếng chim hót, đầy gió và bóng mát. Nó ở trong phố ít người biết tới, bởi có lẽ ông hợp với chốn phồn hoa để có thể “phiêu du” ru hồn cho những tác phẩm dù đã trải qua cả thế kỷ biến động mà vẫn có sức sống mãnh liệt và nóng hổi tính thời sự.
 

Bìa tiểu thuyết “Số đỏ”.
 
Bên cạnh khu mộ là ngôi nhà 5 tầng, nơi các con cháu của ông đang ở. Tầng 1 là nơi lưu giữ những tác phẩm của nhà văn Vũ Trọng Phụng, những tầng trên là nơi sinh sống của các cháu, chắt, chít ngoại của nhà văn. Một phần khu nhà được chia ra để cho các cháu sinh viên thuê trọ, tăng thu nhập cho gia đình.
 
Nhà văn Vũ Trọng Phụng là một hiện tượng văn học độc đáo trong nền văn học Việt Nam. Chỉ với 27 năm cuộc đời, 8 năm sáng tác (từ 1931 đến 1939) nhưng ông đã để lại trong kho tàng văn học Việt Nam một khối lượng tác phẩm đồ sộ bao gồm 28 truyện ngắn, 9 tiểu thuyết, 8 phóng sự, 6 vở kịch, 2 tác phẩm dịch...
 
Ông được đánh giá là một trong những cây bút sắc sảo của chủ nghĩa hiện thực phê phán, có sức sống mãnh liệt cho tới ngày hôm nay như: "Số đỏ", "Giông tố", “Cạm bẫy người", "Đời cạo giấy", "Kĩ nghệ lấy Tây", "Cơm thầy cơm cô", "Dứt tình", "Vỡ đê", "Làm đĩ", "Lấy nhau vì tình", "Trúng số độc đắc"...
 
Cụ giáo Đạm kể lại rằng, cụ đã từng đổi một bức tranh quý, có giá trị cho một người để chuộc lại các giấy tờ của nhà văn Vũ Trọng Phụng, bao gồm: Giấy khai sinh, làm lúc ông Phụng bắt đầu đi học năm 1920, trong đó ghi ngày tháng năm sinh là 20-10-1913. Giấy xin học bổng, làm ngày 12-8-1927, bà Phạm Thị Khách đứng tên, xin cho con trai là Vũ Trọng Phụng suất học bổng Trường Trung học bảo hộ (Collège du protectorat), có nhận thực của trưởng phố Hàng Bạc và chứng thực của tòa đốc lý Hà Nội.
 
Giấy khám sức khoẻ: ngày 29-3-1929; ghi tuổi ông Phụng là 16; cao 1,61 m,  nặng 48kg; bác sĩ xác nhận sức khoẻ tốt. Thẻ nhà báo, làm năm 1932, Nông công thương Báo. Thẻ nhà báo, làm năm 1933, Báo Nhật tân. Thẻ thuế thân, năm 1938. Cuốn sổ tay nhỏ, cỡ bao thuốc lá, loại sổ tự đóng lấy bằng giấy học trò kẻ ô ca-rô, trên bìa màu xanh ghi: "Carnet de Reconnaissance"; bên trong, phần đầu là "Sổ biên đồ mừng cưới, ngày 22 tháng Chạp Đinh Sửu - 23 Janvier 1938", tiếp đó là "Danh sách những quý vị cho Vũ Mỵ Hằng (đẻ ngày 4 tháng 9 Mậu Dần)", các trang còn lại ghi các loại địa chỉ, chủ yếu là các hiệu thuốc...
 
Bây giờ, cụ giáo Đạm đã già, song những lúc rỗi rãi, cụ vẫn nhúc nhắc đi bộ ra đình làng Giáp Nhất để thưởng ngoạn cảnh vật và hướng về phía ngôi nhà của nhà văn Vũ Trọng Phụng. Đối với cụ Đạm, người đã sống trọn một cuộc đời ở cái làng thân yêu này, thì mọi chuyện vẫn nguyên vẹn trong ký ức, và chỉ như mới diễn ra ngày hôm qua...
 
 
Theo Trần Hoàng Thiên Kim - An ninh thế giới Online
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 

Các bài mới
Các bài đã đăng