Từ trái qua: Nhà thơ Nguyễn Mỹ, Nhà văn Dương Thị Xuân Quý, Nhà văn Chu Cẩm Phong
1. Đầu tháng 6-2017, chúng tôi có dịp về Đà Nẵng gặp gỡ trò chuyện với nhà thơ, nhà báo Thanh Quế, người được nhận Giải thưởng Nhà nước về VHNT năm 2012. Ông là một trong những nhân chứng lịch sử từng gắn bó với chiến trường Khu 5, đặc biệt là vùng đất Quảng Nam thời chống Mỹ. Trong câu chuyện, con người hồn hậu này ít nói về mình mà chủ yếu nhớ về những đồng đội, đồng nghiệp cùng vào sinh ra tử dưới mưa bom bão đạn, nhất là những cây bút mà để có được những trang viết chân thực sống động đã phải đánh đổi cả sinh mạng của mình.
Điều tiếc nuối nhất của nhà thơ Thanh Quế là khi ông vào chiến trường không gặp được nhà văn Dương Thị Xuân Quý vì bà đã hy sinh hơn nửa năm trước trong một trận càn tại Xuyên Tân nay thuộc tỉnh Quảng Nam. Vốn sinh trưởng trong một gia tộc trí thức nổi tiếng ở Hà Nội, bà tốt nghiệp trung cấp ngành mỏ và đại học báo chí, về làm ở Báo Phụ Nữ Việt Nam, rồi xung phong vào chiến trường cùng chồng khi bà mới sinh đứa con gái đầu lòng được 16 tháng tuổi và bé phải gửi lại cho bà ngoại nuôi dưỡng.
Thời kỳ công tác ở cơ quan Hội Văn nghệ giải phóng Khu 5, nhà văn Dương Thị Xuân Quý vừa tham gia những công việc hàng ngày như cắt tranh làm nhà, sản xuất, gùi cõng lương thực và vẫn duy trì sức sáng tác. Đêm đêm bên ngọn đèn dầu, bà ngồi cặm cụi viết. Thời gian sau chiến dịch tổng tấn công Mậu Thân 1968, dù tình hình rất căng thẳng khi địch liên tục càn quét để tạo nên những “vùng trắng” nhưng bà vẫn bất chấp để xuống tận cơ sở, bám trụ cùng bà con để lấy tư liệu thực tế mà viết ký sự, truyện ngắn. Từ lời kể của một cán bộ tuyên huấn huyện Duy Xuyên, nhà thơ Thanh Quế đã thuật lại trong bài viết Người phụ nữ gầy yếu và mạnh mẽ những dòng rất xúc động về nhà văn Dương Thị Xuân Quý: “Ngay trước đêm bị địch càn, chị Quý còn ngồi làm việc tới hơn mười một giờ khuya. Chị bảo chị cố gắng hoàn thành bút ký về xã Xuyên Hòa, xã anh hùng nổi tiếng ở Quảng Đà. Nhưng chị đã ngã xuống không kịp hoàn chỉnh cái bút ký ấy. Nó cũng như những cái ký và truyện đã hoàn thành theo chị ra đi, không còn đến với chúng ta nữa”.
2. Đối với nhà văn Chu Cẩm Phong thì nhà thơ Thanh Quế may mắn được gặp ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội lần đầu từ tháng 9-1963, rồi sau này lại hội ngộ ở chiến trường đất Quảng. Lúc Thanh Quế mới vào học năm thứ nhất khoa sử thì Chu Cẩm Phong đã học khoa văn năm thứ tư lại được tuyển chọn đi du học nước ngoài nhưng ông từ chối và xung phong về Nam theo đoàn của Thông tấn xã từ cuối năm 1964.
Nhà thơ Thanh Quế cho hay: “Chu Cẩm Phong ghi chép rất kỹ lưỡng. Trong sổ tay, anh tả từng khuôn mặt người, từng câu nói, từng từ lạ, những từ mang bản sắc vùng đất, cùng với những vật dụng mà bà con thường dùng ở từng vùng… Những gì anh viết ra chỉ là một phần rất nhỏ so với những điều anh thu nhận được. Anh hiểu thấu đáo nhiều việc xảy ra ở đồng bằng, ở miền núi Khu 5”. Đối với Thanh Quế và một số cây bút cùng cơ quan, Chu Cẩm Phong là bậc đàn anh về kinh nghiệm sống và chữ nghĩa, mà khi viết bị bí chi tiết họ hay hỏi “xin” ông.
Vào cuối tháng 3-1971, Chu Cẩm Phong đi công tác ở Quảng Đà, gửi lại 3 cuốn nhật ký cho Thanh Quế giữ giùm, đựng trong một thùng đạn đại liên không thấm nước. Ông chỉ mang theo bên mình một cuốn nhật ký đang dùng. Và cuốn nhật ký cuối cùng này đã biến mất khi nhà văn Chu Cẩm Phong anh dũng hy sinh ngày 1-5-1971 cùng 3 đồng đội trong một căn hầm bí mật bị địch phát hiện bao vây tấn công liên tục. Nhưng rồi sau ngày đất nước thống nhất, một thầy giáo vốn là sĩ quan quân lực Sài Gòn đã tìm đến trụ sở Hội Văn nghệ giải phóng miền Trung trao lại cuốn nhật ký này tận tay một nhà thơ bạn thân của ông. Và gần 30 năm sau, cuốn nhật ký lưu lạc ấy hợp cùng 3 cuốn nhật ký vốn do nhà thơ Thanh Quế cùng đồng đội, gia đình lưu giữ in thành tác phẩm Nhật ký chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Chu Cẩm Phong. Rồi mười năm sau, ông được Chủ tịch nước truy phong Anh hùng Lực lượng vũ trang, trở thành nhà văn Việt Nam đầu tiên được phong tặng danh hiệu này.
3. Cây bút thứ ba hy sinh trên chiến trường đất Quảng mà nhà thơ Thanh Quế luôn nhớ tới với tất cả nỗi tiếc thương, day dứt là nhà thơ Nguyễn Mỹ, người mà theo ông đã gặp nhiều gian truân cả lúc sống lẫn lúc đã ngã xuống. Nhà thơ Nguyễn Mỹ là em ruột của nhạc sĩ Nhật Lai, đồng hương cùng huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên với nhà thơ Thanh Quế. Với bài thơ Cuộc chia ly màu đỏ nổi tiếng in trên Báo Văn Nghệ năm 1965, Nguyễn Mỹ sớm trở thành gương mặt thơ sáng giá.
Cuối năm 1968, Nguyễn Mỹ rời Nhà xuất bản Phổ thông mà mình đang công tác, xung phong trở về miền Nam chiến đấu. Tròn một năm sau Thanh Quế cũng rời Hà Nội vào đất Quảng. Vừa đến nơi, hay tin Nguyễn Mỹ không được công tác ở hội văn nghệ mà đang sản xuất, làm ca dao hò vè tuyên truyền ở tận Trà My, ngay hôm sau Thanh Quế đã vượt núi băng rừng hơn ngày ròng đi cõng sắn và thăm người anh đồng hương.
Một lần trên đường đi công tác, nhà thơ Nguyễn Mỹ ghé Hội Văn nghệ giải phóng, được đãi bữa bánh sắn. Trong câu chuyện văn chương, ông rút trong gùi ra một xấp giấy bọc ni lông, cho biết đã sáng tác được chín bài thơ toàn có màu như Cánh đồng vàng, Hoa ê-pan trắng, Hoa tím,… để hợp cùng Cuộc chia ly màu đỏ thành bộ tranh “có màu”. Nghe vậy, nhà văn Chu Cẩm Phong cười thốt lên: “Thế thì ông là nhà thơ của những sắc màu rồi!”. Họ xin thơ để in trên tạp chí Văn Nghệ Giải Phóng, nhưng Nguyễn Mỹ nói để sửa chữa cho kỹ rồi gửi, nhưng cuối cùng những bài thơ sắc màu ấy đã biến mất theo nhà thơ khi ông hy sinh trong một trận càn của địch ở căn cứ Nước Ta, huyện Trà My sáng ngày 16-5-1971.
Nhà thơ Thanh Quế cho biết sau khi nhà thơ Nguyễn Mỹ bị bắn thì “Địch lục soát thấy anh có một chứng minh thư cũ ghi tên là Nguyễn Mỹ và trong gùi có một tờ Báo Cờ Giải Phóng của Khu 5 đăng một bài ca dao chống chiến tranh tâm lý, ký tên anh, nên chúng rêu rao là đã giết được một nhà báo”.
Theo Hoàng Yên - SGGP Online