Ảnh bìa tập thơ “Đặng Đình Hưng – một bến lạ”
2. Có một nghịch lí ở con người là không ai muốn chung sống với nỗi cô đơn. Nhưng chính nỗi cô đơn là nguồn năng lượng giúp con người lớn lên. Với các nhà văn nói trên có thể nói nỗi cô đơn là bi kịch của họ. Nhưng với bi kịch ấy họ đã khẳng định tầm vóc đích thực của mình. Một tầm vóc không ai có thể phủ nhận được. Họ đã hoàn thành xuất sắc sự mang thơ ca của thế hệ mình bằng những sáng tạo dằng dặc cô đơn. Nếu Hoàng Cầm là chất thủy, Văn Cao là chất thổ, Trần Dần là chất hỏa, Lê Đạt là chất mộc, thì Đặng Đình Hưng là chất kim. Họ vừa tạo nên một ngũ hành tương sinh về tư tưởng lại vừa tạo nên một ngũ hành tương khắc về biểu hiện. Hà Đồ - Lạc Thư nơi họ dựng lên một khát khao tự do trong sáng tạo đến cùng cực.
Tự hành trình ngược vào mình để tìm kiếm tới mức vô vọng, Đặng Đình Hưng đã tạo lên một thi pháp hết sức độc đáo. Trong lời mở tập “Bến lạ”, người đại diện cho NXB Văn nghệ TP HCM đã viết: “Có lẽ cái cảm giác khó hiểu khi tiếp xúc dần dần với thơ Đặng Đình Hưng cũng từ đó lại thêm lối nói nhiều chiều, dấp dính lửng chửng mâu thuẫn, xa xôi, hàm súc vốn là lối nói thường ngày của ông, thơ ông là những đợt sóng ngược xuôi ngang dọc của trí tuệ. Mỗi hình ảnh mỗi cách nói đều có sự lấp lánh. Lại lắm khi lời chữ tự động cuốn nhau đi như dắt bởi một lực giấu mặt tạo ra một trường gợi tưởng hơn một ý tưởng. Và trong dòng tâm thức triền miên thỉnh thoảng nhói lên một vết đạn kiến ai cũng phải cảm thương”.
Người xưa nói “Ngũ thập tri thiên mệnh”. Đã đến tuổi 50 thì không còn thay đổi gì được và tuân theo trời, vậy mà tuổi lục tuần, nằm trên giường bệnh với khối u ngấp nghé di căn, Đặng Đình Hưng đắc thiền tới mức đủ công lực mình thay đổi đến không ngờ. Vị đời đã nếm trải quá đủ, đã sống tới mức “tìm ra cái gương cũng không gì hết”. Nhưng kể ra chiêm nghiệm này để thực sự thanh thản khi về với Bến lạ như một lời sám hối, một bài nguyện cầu thành khẩn mà mơ hồ thì chỉ có Đặng Đình Hưng mới làm được.
Tôi đã đọc Bến lạ theo cách cầu kinh lầm rầm lì rì, thấy lời, chữ như dần dần sóng âm ra không gian xung quanh. Và tự nhiên thấy mình như cộng hưởng cùng ông trôi dạt ra nơi nào đó ở ngoài thể phách. Sao con người lại có thể chắt ra“Từ góc nhọn A, tôi đi ghềnh V ghê sợ nhất” - có thể nào nói nói ngắn hơn, gây dư chấn mạnh hơn câu này?
Nhịp điệu cầu kinh đã dịch chuyển Bến lạ loang xa như không cùng. Những an-pha, mê-ta, mê-ga, tê-ta cứ thế trôi nổi như trong một dao động sóng “hột khuya” khiến ngực ta cảm thấy “có lẽ vẹt". Bởi ở trên ngực cứ thình thình một tiếng đập” và những “hạt thóc giống của không biết” đã tự nhiên mọc lên sự biết trong cảm nhận của ta. “Đời gì - sao cứ đi đi những cái vali cứ về bến lạ”. Đời là thế biết cả rồi khổ lắm nói mãi. Bến lạ cứ gửi gắm như vậy đó. Chuyện cũng như Đặng Đình Hưng đã phải âm thầm ngẫm nghĩ qua bao nhiêu chiêm nghiệm. Và hình như để gưi lại những chiêm nghiệm ấy cho đời trước lúc Tạ mùa đi, Đặng Đình Hưng lại tiếp tục mình đứng cuộc cách tân thơ âm thầm của mình bằng Ô mai - tác phẩm cuối cùng của ông.
3. Tôi nhớ mùa Thu 1989, Đặng Đình Hưng lại vào viện. Khi tôi đến thăm tuy còn mệt nhưng Đặng Đình Hưng rất vui. Rì rầm trò chuyện người lại đọc nghe vài đoạn Ô mai. Đích thị là “Ô mai Hàng Đường” rồi, ông ngỏ ý muốn anh em xúm vào để đưa Ô mai ra với cuộc đời. Nhưng cái chết đã ập đến số phận ông quá sớm, phải tới sau khi ông mất đến 3 năm, Ô mai mới được ấn hành, cũng như người đại diện NXB Hội Nhà văn trong lời nói đầu đã viết: “Ô mai mang một hình thức đặc biệt có lẽ chỉ có ở riêng tác giả và cũng chỉ xuất hiện một lần trên một cuộc độc thoại nửa thơ nửa văn xuôi, hiện lên câu chuyện tình hư hư thực thực với những đoạn hát đôi của nhạc kịch, xen kẽ những tùy bút đầy không khí và những đối đáp đầy lí thú về công việc sáng tạo mà ông gọi là “thể nghiệm”, gọi là một tác phẩm thơ thì nó là một thứ thơ không chút bận tâm tới những quy ước có sẵn về thơ và quả thật nó là thơ đến tận cùng, ở một thứ ngôn ngữ đầy nhạc tính bên trong, nén chặt âm vang gợi cảm và gợi tưởng ở chất chữ tình trí tuệ bông đùa rớm máu. Nó là thơ ở công phu bằng tiếng Việt, thứ tiếng Việt Đặng Đình Hưng, quanh co và nhảy nhót, chắc nịch và lan man ”.
Nghệ sĩ Đặng Thái Sơn (phải) trong cuộc tọa đàm. Ảnh: Nguyễn Đình Toán
Tôi may mắn có một thời gian dài thường xuyên uống rượu cùng với ông tại nhà và tại các quán quen quanh nhà từ đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Vậy nên những hiện thực Đặng Đình Hưng chuyển vào Ô mai đều rất quen thuộc với tôi. Nhưng lạ, khi qua thơ ông những hiện thực ấy đều lấp lánh một ánh sáng khác thường, chiếu rọi từ tinh thần cách tân của thơ ông.
Vẫn là cái buồng tầng hai của tòa nhà 5 tầng khu Giảng Võ nhìn ra đường, cái buồng ông được đích thân Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ thị thành phố cấp cho ông sau khi Đặng Thái Sơn đoạt giải F. Chopin. Cái buồng mà ông đã viết “sống khuôn nhịp tới mức người cùng cái ngôi nhà năm tầng này như thuộc, thuộc giờ đi về, sức nặng nhẹ, dài ngắn bàn chân cầu thang”, cái buồng mà ông đã từng bao năm “thường ngồi giờ dai chẳng nghĩ, chỉ cảm bằng da. Da của mắt bàn tay và lưng là chủ yếu. Tới mức bản thân gắn chặt vào không khí, đồ vật, tường, buồng”... Khi vào thơ ông, nó khác lạ nhường bao.
Vẫn là những quán bình dân quen thuộc mà ông “một ngày hai lần anh ra quán. Uống và nhìn. Nhìn người. Anh ngồi dài, tắm vào cái số đông di động của quán. Cũng ngần ấy cảm giác lạc thú. Cái ầm ầm của quán, anh ầm ầm vỗ theo”. Với chỉ hai động từ “tắm” và “vỗ theo”, Đặng Đình Hưng đã gợi cho ta những nhàm chán, tẻ nhạt của kiếp người “phải ăn dần thời gian sống” một cách vô vị đến thế.
Vẫn là cái chợ quen mà sau khi qua thơ Đặng Đình Hưng, nó tràn trề cựa quậy một nỗi đời nhưng nhức cái chợ, nói như Thanh Thảo, đã ở trong ông trào ra từ khi nào trào ra từ cơn thèm một cái gì đó: “điểm cao của trào có khi chạm lại tất cả những thứ thèm: ăn nghe - nhìn - ngắm, chẳng hạn ăn một quả chuông buông giờ”.
Nghệ sĩ Đặng Thái Sơn biểu diễn tại buổi tọa đàm
Vẫn là một cuộc dọn dẹp thanh lí các thứ thừa trong nhà, nhưng khi qua thơ Đặng Đình Hưng ta thấy sửng sốt ngạc nhiên như cả một thế hệ khi chợt ngoái lại hồi ức, quá vãng, kỷ niệm: “ảnh. Thuốc long ra. Những khuôn mặt chậm lại. Phải nhẹ tay bóc ra. Lâu chưa? không mở ra nhìn không mở cho thiếu tình hay ghim tình mà thời gian ăn mặt. Thời gian ăn cả đá, cả sắt cả sĩ, thời gian chuyển thành vôi đất – chả cứ người – nhan sắc và công danh”. Một cuộc “lọc - thải và giữ” những gì đã sống qua, đã lưu lại đến chất chồng trong cõi tan nát: “dùng dằng trước cái đống này. Ở lại đi? cái đống hiện thân một mảng đời dài. Một cuộc tổng tạo mộ. Để làm gì mà tạo mộ. Một quyết định gì đây? hay chỉ là cơn nghiện bệnh tật quen ăn quá khứ che lấp đi cái hiện hành”.
Vẫn là phố quen của Hà Nội cổ xen lẫn Hà Nội cũ và Hà Nội nay. Vậy mà khi qua âm hưởng thơ Đặng Đình Hưng ta cứ thấy ngỡ ngàng lạ thường: “phố: những dòng đi lúc đậm, nhạt. vôi- vướng - tránh xa nhau... Đi! phố - ngoặt phố - lại ngoặt phố... anh đi fố fố cột đèn... về - fố lác đác đèn...”, cái mòn mòn quen quen nhạt nhạt cứ xâm lấn ta bởi nhịp lời chữ cứ cuốn đi, cuốn đi không cưỡng nổi.
Ngay cả đến nàng Ô mai ta cũng nghĩ là để gặp nhiều lần ở đâu đó trong quán quen, cũng đã từng thấy thấp thoáng trong căn buồng ông. Vậy mà khi ông thốt lên những dòng thơ tội nghiệp về thân phận nàng ta, cảm thấy như oan nghiệt nàng đã trải cứ cứa vào ta một cách chẳng thông thường, cứa nhay nhứt:
“Em đã mất ấu thơ, mất ước mơ mất mùa tổ ấm”
“Nhà thơ ơi! anh có phép diệu kỳ ước mơ nhất làm lại hộ em đi lửa tắt ngang chừng nhóm lại hộ em đi”
Đặng Đình Hưng đã phong thánh cho nàng “Ô mai” của mình thật rất nhẹ nhàng và tự nhiên:
“đừng khóc
Đau thương bằng thánh
Em là người thánh
oan là thánh
Nghe, em của anh đã thốt ra được lời em lấy lại được đời rồi lấy lại y nguyên”.
Vẫn là căn buồng “siêu hầm” ở góc đầu tòa nhà trên tầng hai, nhưng khi Đặng Đình Hưng đắm chìm trong cơn thể nghiệm, cái “siêu hầm” ấy trở nên một cõi thiền để Đặng Đình Hưng siêu thoát hết thảy mọi cô đơn trong suốt cuộc đời. Cái hầm của Đặng Đình Hưng, cái ghế của Trần Dần ngày nào cũng ngồi đến lõm cả tường, cái gác xép của Hoàng Cầm, cái góc tối của Lê Đạt, cái ghế mây của Văn Cao, tất cả đều đã trở thành giới hạn nơi các ông bay lên qua nỗi cô đơn để hòa nhập vào vô cùng.
4. Đặng Đình Hưng cách tân thơ âm thầm nhưng không hề cố ý. Bằng tất cả tình yêu da diết con người cuộc đời ông đã thốt lên bằng cái giọng kim rất Việt của mình những gì ông đã trải nghiệm, đã thấm thía. Vẫn là lời kết lại của NXB Hội Nhà văn: “Nếu Bến lạ là cơn mê sảng của một tâm hồn đầy khát vọng bị dồn nén thì có thể coi Ô mai như một sự giải thoát. Sự giải thoát mà tác giả đã gặp được ở cuối đời bi kịch của ông”.
Sự giải thoát ấy đã thực sự chấm dứt vào ngày 21/12/1990 trong cái buồng “siêu hầm” ấy, tôi thấy Đặng Đình Hưng nằm im lặng như những câu thơ, những nét vẽ, những mảnh mùa. Bỗng thấy như có một cái gì đó bồng bềnh không nhìn rõ cứ bay bay mà để lại mãi mãi.
Năm nay, năm 2021, năm Đặng Đình Hưng nếu còn trên dương thế thì đạt thọ 97 tuổi. Xin ghi lại ít dòng về ông, để thấy ông đang trở lại cùng mùa Xuân nhân gian.
Theo Nguyễn Thụy Kha - Thể thao & Văn hóa