Năm 1945, hội họa Việt Nam bước sang một thời kì mới, khi trường Mỹ thuật Đông Dương chấm dứt vai trò của mình và nhiều họa sĩ đã lên Việt Bắc, theo kháng chiến, có nhiều đóng góp trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Có một điều đặc biệt: trong 80 năm qua, song hành cùng lịch sử dân tộc, nền mỹ thuật nước nhà đã gặt hái nhiều thành tựu, các nghệ sĩ đã phát huy vai trò tiên phong để tái hiện lịch sử, đấu tranh vì độc lập dân tộc. Chúng ta sẽ cùng nhà nghiên cứu mỹ thuật Nguyễn Hải Yến nhìn lại những thay đổi cũng như thành tựu của mỹ thuật hiện đại nước nhà nhân kỉ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Thưa nhà nghiên cứu mỹ thuật Nguyễn Hải Yến, vì sao nói Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra bước ngoặt lịch sử với nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam?
- Trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam, sự ra đời của trường Mỹ thuật Đông Dương với các thế hệ họa sĩ ở giai đoạn cận đại đã làm nên các tác phẩm ghi dấu ấn sáng tác trong thời kì 1930-1945. Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một bước ngoặt mới trong lịch sử Việt Nam, mở ra một quan niệm mới về đời sống xã hội, về sáng tác cũng như về người nghệ sĩ. Một số họa sĩ ở giai đoạn này đã khẳng định ngay bước đường đi của mình là phải tiếp nối thành quả cách mạng, từ bỏ những lãng mạn của thời kì trước, từng chịu ảnh hưởng lớn của khuynh hướng nghệ thuật phương Tây, qua trường Mỹ thuật Đông Dương.
Cuộc ra đi từ Đường Lâm, Sơn Tây và các nhóm văn nghệ ở Khu 3, 4, 5 và Nam Bộ đã làm tiền đề cho mỹ thuật Việt Nam sau này, mở ra một khuynh hướng nghệ thuật kéo dài cho đến năm 1954. Các họa sĩ nói vui, đây là thời kì “vứt bút” - không bận tâm bảng màu, nét vẽ mà chịu ảnh hưởng của đời sống xã hội đang sôi sục của cách mạng. Một số không đi Đường Lâm, Sơn Tây thì lại đi vẽ Hà Nội “đau thương mà anh dũng”. Những tác phẩm của Nguyễn Văn Tỵ, Phan Kế An, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung… trong những sớm mùa thu năm ấy đã thể hiện trách nhiệm của người nghệ sĩ. Để rồi sau đó, tại chiến khu Việt Bắc cũng như ở khu 3, khu 4… từ những bức tranh của Tô Ngọc Vân, Diệp Minh Châu cũng như những tranh luận ở Việt Bắc về quan niệm nghệ thuật “vẽ về ai, ai xem, vẽ cái gì và vẽ như thế nào” đã làm cho diện mạo mỹ thuật Việt Nam, ngay từ khi tiếp xúc với cách mạng đã có những họa sĩ tiêu biểu của thời đại. Hiếm có nền mỹ thuật nào gắn bó, nương theo lịch sử như lịch sử mỹ thuật Việt Nam.
Những hoạt động đó kéo dài đến năm 1954, các họa sĩ đã hình thành mô hình thẩm mỹ với những quan niệm về đề tài sáng tác, bảo lưu những chất liệu của dân tộc như sơn mài, tranh lụa, tranh sơn dầu, tranh khắc gỗ. Những dòng chảy mỹ thuật ấy rất phong phú được thể hiện bởi bút pháp tài hoa, lãng mạn cách mạng, quan niệm nghệ thuật hướng về đất nước, nhân dân, làm trọn vai trò của người nghệ sĩ trong giai đoạn mới.
- Sau ngày tiếp quản thủ đô, miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng đất nước và chi viện cho miền Nam, lịch sử mỹ thuật đã có những sự kế thừa và thay đổi ra sao, thưa nhà nghiên cứu Nguyễn Hải Yến?
- Sau khi các họa sĩ từ chiến khu trở về, họ bắt tay sáng tác những tác phẩm nói lên niềm vui sướng, hân hoan trong hòa bình. Họa sĩ Nguyễn Tiến Chung có Hà Nội giải phóng, họa sĩ Bùi Xuân Phái vẽ Em bé cưỡi ngựa gỗ, Tháp Rùa... Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, có 3 thập niên ghi lại dấu ấn mạnh mẽ, là thập niên 60 - làm sống lại nghệ thuật sơn mài, mang yếu tố của nghệ thuật tạo hình, được mang đi triển lãm ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa; thập niên 70 - khi miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của đế quốc Mỹ, các họa sĩ của hai miền Nam - Bắc đã lên đường chống Mỹ, ghi lại những chiến công của quân và dân ta, tiêu biểu như những bức tranh của Huỳnh Phương Đông, Phạm Đỗ Đồng, Thanh Châu... Dòng chảy nghệ thuật thập niên 60, 70 là tác phẩm của các họa sĩ, bám theo hiện thực xã hội, là cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.
- Khi đất nước bước vào thời kì đổi mới, một khuynh hướng sáng tác mới đã được manh nha và tạo nên ngôn ngữ hội họa Việt Nam không nhầm lẫn, không nhàm chán, tạo nên những điểm tựa cho thế hệ trẻ sau này. Bước chuyển mình từ thập niên 1980 được thể hiện như thế nào trong đời sống mỹ thuật, thưa bà?
- Khi đất nước thống nhất, sự giao thoa giữa văn hóa hai miền Nam-Bắc, các họa sĩ gặp nhau, có những quan niệm nghệ thuật mới. Triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1980 không chỉ là cuộc gặp gỡ với tinh thần như vậy mà còn mở đầu cho khuynh hướng sáng tác mới, tiếp biến giá trị văn hóa truyền thống và hội nhập với hội họa phương Tây. Những khuynh hướng nghệ thuật như biểu hiện, trừu tượng, siêu thực được chấp nhận trong triển lãm. Từ năm 1985-1990, giới nghệ thuật tạo hình có nhiều triển lãm cá nhân, các gallery tấp nập khai mạc, đời sống nghệ sĩ được trả lại đúng vị trí… Sự đổi mới ấy không bị thôi thúc bởi ý tưởng gò bó mà họ hiểu rằng, trong thời đại mới, cần có những quan niệm khác trong tác phẩm của mình. 3 triển lãm cá nhân của họa sĩ Nguyễn Sáng năm 1984, triển lãm của họa sĩ Bùi Xuân Phái 1985 và triển lãm của họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm 1986, với ngôn ngữ nghệ thuật mới, cho thấy nghệ thuật phải là như vậy. Họ là những người can đảm hòa nhập được với mỹ thuật đương đại thế giới, ảnh hưởng lớn tới thế hệ trẻ sau này. Vì thế, các nhà nghiên cứu cho rằng: Mỹ thuật Việt Nam không đứt đoạn với lịch sử, không xa cách với thế giới, không xa lạ với thẩm mỹ đang đòi hỏi phải có những thay đổi.
- Lịch sử hội họa cũng giống như một dòng chảy không ngừng! Theo bà, thế hệ họa sĩ trẻ ngày nay đã tiếp nối những người đi trước như thế nào?
- Trong xu thế phát triển hiện nay, việc các quốc gia dân tộc hòa nhập vào dòng chảy chung của nhân loại về văn hóa nghệ thuật đã trở thành hiện tượng phổ quát, có tính quy luật, không thể đảo ngược mà ngày càng sâu sắc hơn. Tôi quan niệm nghệ thuật với bản chất của nó là không bao giờ đứng yên mà luôn hiện hữu trong những lần tiếp xúc. Những năm 90, với sự hiện diện của Giải thưởng mỹ thuật Việt Nam, ASEAN do Công ty Philip Morris Việt Nam tài trợ, với những tác phẩm được ghi nhận có sự tìm tòi ngôn ngữ mới của thế hệ trẻ. Bức tranh Thiên nhiên trong lồng của Hứa Thanh Bình, Sự sống của Nguyễn Tấn Cương, Hóa thạch bạo lực của Đỗ Minh Tâm… Chủ đề môi trường, cuộc sống nhân loại cũng được thể hiện trong các triển lãm, các họa sĩ luôn cố gắng tìm được ngôn ngữ nghệ thuật phù hợp. Các họa sĩ trẻ quan tâm đến hình thức biểu hiện, sự nhập cuộc với thế giới với những chủ đề môi trường, rác thải, bệnh tật… Đó là những đề tài khác với các thế hệ cha ông. Họ đi xa hơn với những chủ đề mang ý nghĩa triết học. Sự suy nghĩ về đề tài của thế hệ bây giờ gắn với những lo lắng về số phận con người, số phận nhân loại, những day dứt trong đời sống cá nhân… Cho nên, dòng chảy mỹ thuật Việt Nam trong 80 năm chưa phải là sự bứt phá mạnh mẽ nhưng cũng trôi chảy theo dòng đời, nương theo lịch sử, vai trò cá nhân nghệ sĩ càng ngày càng bộc lộ rõ hơn. Nó là sự khác biệt giữa các tầng lớp họa sĩ già - trẻ và những người đang muốn tìm ngôn ngữ nghệ thuật cho riêng mình thành phong cách nghệ thuật tương đồng với xã hội, với thời đại và với thế giới.
Trân trọng cảm ơn nhà nghiên cứu mỹ thuật Nguyễn Hải Yến!
(Theo vannghe.vn)