NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG
Trong sáng tạo văn học, hình tượng con người là một phạm trù quan trọng, vì con người suy cho đến cùng đó là đối tượng miêu tả cốt yếu của văn chương, không thể mô tả sự vật, hiện tượng mà không bao hàm những quan niệm về nó. Quan niệm về con người đánh dấu sự phát triển của văn chương với sự biểu hiện qua các thể tài, thủ pháp nghệ thuật, khả năng vận dụng ngôn ngữ. Do vậy, việc nghiên cứu hình tượng con người mang ý nghĩa rất quan trọng, vì điều con người với tất cả những quan niệm về nó đã chi phối toàn bộ tác phẩm của nhà văn. Trần Đình Sử viết về điều này như sau: “Quan niệm nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lý giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình” [1, tr.15].
Mỗi thời đại sẽ có những “kiểu con người” khác nhau mang quan niệm của dấu ấn của thời đại xuất phát từ những nội dung trong quan niệm xã hội, trong tư tưởng triết học nền tảng mà thời đại đó đề cao. Thơ trên kiến trúc cung đình Huế thuộc văn học trung đại, một hệ thống văn học có nhiều đặc điểm trong quan niệm nghệ thuật, nhất là quan niệm nghệ thuật về con người.
1. Con người vũ trụ đề cao thiên mệnh
Nền tảng xã hội thời trung đại gắn liền với đời sống nông nghiệp, phụ thuộc sâu sắc về các điều kiện tự nhiên, con người trung đại Việt Nam cũng như các nước đồng văn gắn bó mật thiết với thiên nhiên, với thế giới vũ trụ. Do vậy con người và vũ trụ được quan niệm như một thể thống nhất và có tính phổ quát. Con người được xem là một tiểu vũ trụ tồn tại trong đại vũ trụ. Chính quan niệm con người vũ trụ đã chi phối mọi hình thái tinh thần xã hội.
Xuất phát từ nhận thức về mối quan hệ hữu cơ giữa con người và vũ trụ, người xưa đã xem mình là trung tâm khi miêu tả, xem xét, đánh giá tự nhiên. Trước hết, thơ trên kiến trúc cung đình Huế có nhiều biểu hiện tập trung về điều này: Thượng uyển tân oanh tài nhất chuyển / Càn khôn vũ trụ tổng giai xuân (上 苑 新 鶯 纔 一 囀 / 乾 坤 宇 宙 總 皆 春 - Chim oanh ríu rít sau vườn ngự / Vũ trụ cảnh xuân mãi đất trời, thơ trên lăng Đồng Khánh); Hà xứ thu sinh tảo / Thu sinh ngọc vũ thanh (何 處 秋 生 早 / 秋 生 玉 宇 清 - Nơi nào mùa thu đến sớm / Mùa thu đến vũ trụ trong lành, thơ trên lăng Thiệu Trị). Xu hướng này trước tiên thể hiện ở vị trí, tư thế của con người trong vũ trụ, giữa đất trời để nhìn ngắm, mô tả, đánh giá, bày tỏ v.v. với mọi sự vật, hiện tượng. Con người quan sát sự vận hành của thiên tượng: mặt trời, mặt trăng, tinh tú, mây, mưa, sấm, chớp v.v. để tính thời tiết, tính nông lịch, thậm chí tính cả biến thiên thời cuộc. Bởi vậy, qua hơn một ngàn bài thơ trên kiến trúc cung đình Huế mà tần suất xuất hiện của các chữ nằm trong trường nghĩa này rất lớn: trời (thiên 天: 390 lần); đất (địa 地: 79 lần); trời, tên một quẻ trong Dịch học (càn 乾: 78 lần); đất, tên một quẻ trong Dịch học (khôn 坤: 40 lần); ngày, mặt trời (nhật 日: 201 lần); tháng, mặt trăng (nguyệt月: 127 lần); tạo hóa, giáo hóa (hóa 化: 60 lần); mưa (vũ 雨: 145 lần); mây (vân 雲: 190 lần); sương, móc (sương 霜: 60 lần); gió (phong 風: 248 lần), sao trời (tinh 星: 40 lần), v.v. Đó quả là một "vũ trụ ngôn ngữ" được tích hợp qua tập quán tư duy.
Trong vũ trụ, con người phóng mắt ra bốn phương để khẳng định vị trí trung tâm của mình trong mối tương hợp, đan xen, trộn lẫn giữa hữu thể và vô thể; giữa hữu hạn và vô hạn:
- Bản căn tùng bắc địa / Chi cán lộ nam thiên 本 根 從 北 地 / 枝 幹 露 南 天 (Gốc rễ từ đất Bắc / Cành thân rõ Nam phương, thơ trên Ngọ Môn);
- Đông táp từ từ phất / Tây vân tiệm tiệm thinh 東 颯 徐 徐 拂 / 西 雲 漸 漸 清 (Từ từ thổi ngọn gió đông / Mây tây gió đẩy trời trong dần dần, thơ trên lăng Đồng Khánh);
- Tây phương thiết giáo chủ từ bi / Nam hải phi lai vị tế thì 西 方 設 教 主 慈 悲 / 南 海 飛 來 為 濟 時 (Từ bi truyền đạo ở Tây phương / Tế độ biển Nam lại vượt đường, thơ trên đình Hương Nguyện, chùa Linh Mụ);
- Bạch vân thu bắc tụ / Hồng nhật xuất đông cai 白 雲 收 北 岫 / 紅 日 出 東 垓 (Mây trắng lui về hang hướng bắc / Mặt trời hồng lên từ hướng đông xa, thơ trên lăng Minh Mạng);
- Nhật nhật thùy tình lãng thượng nhân / Bắc nam tào vận đệ niên tần日 日 垂 情 浪 上 人 / 北 南 漕 運 遞 年 頻 (Ngày ngày vẫn đoái nghĩ những người trên sóng nước / Hàng năm phải lần lượt chuyên chở từ nam chí bắc, thơ trên điện Long An).
Khái quát cao nhất của con người trung tâm vũ trụ là ước vọng tan hòa vào đất trời và bốn phương, tan hòa vào thiên nhiên và cây cỏ: Dã hoa cổ mộc giai sinh ý / Lục hợp đồng xuân chuyển hóa ky 埜 花 古 木 皆 生 意 / 六 合 同 春 轉 化 機 (Hoa đồng cổ thụ đều tươi mát / Lục hợp - trời đất và bốn phương - theo xuân mãi vận hành, thơ trên điện Long An). Từ vị trí đó, con người vũ trụ thức nhận được cái giới hạn của thực tại chính mình, tương giao trong mối quan hệ với tạo hóa vĩnh hằng:
Quần sinh quy phú tái 群 生 歸 覆 載
Vạn quốc hấp thê hàng 萬 國 翕 梯 航
Cộng ngưỡng vô tư chiếu 共 仰 無 私 照
Hàm tri hữu đạo tràng 咸 知 有 道 長
(Mọi người trở lại với sự che chở của đất trời / Muôn nước hợp lại, vượt qua khó khăn/ Cùng ngẩng nhìn ánh sáng của trời, trăng, sao/ Tất cả đều biết có cái đạo trời cao xa, thơ trên điện Thái Hòa).
Trong cõi “thiên địa phú tái” này, con người là trung tâm trong hệ thống “Tam tài” (thiên- địa- nhân) được thiên phú (trời che), được địa tái (đất chở). Trong quan niệm “Tam tài” thì trời là đấng tối cao và tối linh, mà mệnh trời qua thuyết “Thiên mệnh” là một trong những nội dung quan trọng trong nền tảng chính trị để cai trị đất nước theo học thuyết Nho giáo vào thời Nguyễn. Nho giáo quan niệm đạo trời, lẽ trời lưu hành ở mọi vật và định phép sống cho mọi vật như một mệnh lệnh, sau chuyển thành nội dung là số phận do trời định đoạt. Bốn luận điểm mấu chốt của “Thiên mệnh” là, tri mệnh: biết mệnh trời, biết đạo trời mà tuân theo, khả năng của mình được làm và không được làm điều gì; phối mệnh: kết hợp với mệnh, trau dồi đạo đức để xứng đáng với trời; sĩ mệnh: đợi mệnh trời và hành động cho thích hợp; úy mệnh: sợ mệnh trời, đòi hỏi phải nghiêm cẩn đem hết tâm trí của mình để thực hiện đạo trời. Con người hoàng đế mang chân mệnh “thiên tử”, là con trời, thay trời để cai trị thiên hạ. Thuyết “Thiên mệnh” có một ảnh rất sâu sắc trong ý thức hệ của triều Nguyễn, điển hình như: “Trời sinh ra dân, phải có đặt vua để cầm đầu và cai trị. Vua thừa mệnh trời phải có bầy tôi giúp đỡ chở che”[2, tr.133]. Con người vũ trụ luôn ứng xử phù hợp với quy luật tuần hoàn của tạo vật, âm tiêu dương trưởng. Một bài thơ ở Ngọ Môn biểu hiện rất khái quát về thuyết này:
Xảo tượng gia ngôn lặc, 巧 匠 嘉 言 勒
Côn cương danh cửu tri. 昆 崗 名 久 知
Âm tiêu dương trưởng hậu, 陰 消 陽 長 後
Thiên đạo thái lai thì. 天 道 泰 來 時
(Người thợ khéo khắc những lời đẹp/ Núi Côn Cương nổi tiếng mãi mãi đều biết vậy/ Sau âm khí tiêu tan là dương khí nổi lên/ Đó là lúc đạo trời vận hành thông suốt, thơ trên điện Thái Hòa).
Mệnh đề về vũ trụ đã trở thành một nội dung mấu chốt, chi phối thẩm mỹ văn chương. Nhiều bài phú trong "mẫu văn thơ phú" trong các kỳ khoa cử thời Nguyễn do bộ Lễ triều Nguyễn san định với các chủ đề như "Thiên hành kiện phú" (Trời vận động mạnh); "Văn dĩ tải đạo phú" (Văn dùng chở đạo); "Dĩ đức vi xa phú" (Lấy đức làm xe); "Thu nhật huyền thanh quang phú" (Mặt trời mùa thu treo sáng trong" v.v. đều xoay vần trong cái trục vũ trụ "thiên đạo" đó: "Này xem như thánh như thần: Vừa văn vừa vũ. Mở quyền hành ở trước vạn vật; ngồi hướng nam ở trên 9 châu. Bắt chước trời đất; đặt phép vuông tròn. Nói làm phép tắc, như người khéo cầm cương xe ngựa; Nuôi cả âm dương, như thợ khéo trông coi nước nhà" (Dĩ đức vi xa phú) [3, tr.152]. Hay là "Nay xem ra, chỉ có vua dựng phép, dẫu vạn vật cũng dự tam tài; Chỉ thánh nhân bắt chước trời lên ngôi quẻ Kiền mà dùng số 9. Cầm cương lĩnh của muôn việc; dùng then máy ở một lòng. Gốc ở đức kim mộc thủy hỏa thổ tương sinh; khiến cho mưa tạnh ấm rét gió không trái. Cõi đông, cõi nam, cõi bắc chỗ mặt trời chiếu không sai đỗ toàn cơ. Sắc xanh, sắc đỏ, sắc trắng, sắc đen ánh mặt trời biến rõ ở sao Bắc đẩu so với phép hỗn thiên thì đúng" (Thiên hành kiện phú) [3, tr.148].
Nho giáo xem con người là một yếu tố của “tam tài” với ý niệm “thiên nhân hợp nhất”, quan niệm này đã chi phối mạnh mẽ đến nghệ thuật. Thơ trên kiến trúc cung đình Huế do vậy thường xuất hiện vóc dáng con người “tan hòa” với trời đất để khẳng định:
- Phất hỗ nhương nhương đàm khải trạch / Phối thiên phối địa giới vô cương 茀 嘏 穰 穰 覃 闓 澤 / 配 天 配 地 介 無 疆 (Đầy tràn phúc lộc ban ân trạch / Thích hợp trời đất thật chẳng cùng, thơ trên Triệu Miếu);
- Bao la thiên địa thái / Tận nhập đế vương đồ 包 羅 天 地 態 / 盡 入 帝 王 圖 (Cảnh sắc khắp trời đất / Thu vào hết kinh đô, thơ trên lăng Thiệu Trị).
Gắn liền với quá trình xây dựng và không ngừng hoàn thiện mô thức tổ chức nhà nước là quá trình xây dựng kỷ cương xã hội theo quan điểm Nho giáo. Từ trong nội tại của nhà nước quân chủ, ý thức về việc tăng cường ổn định xã hội luôn vấn đề then chốt, khẳng định sự tồn tại của chế độ. Trong quan điểm chính trị của chế độ quân chủ, mệnh trời luôn được dùng như một khái niệm để quảng bá cho một quyết tâm lớn, để khẳng định tính tất yếu của triều đại nào đó mới được thiết lập hoặc giả là để củng cố cho “giềng mối” chính thống của một dòng vua. Đây cũng là một điển hình ở điện Thái Hòa:
Cư trung hữu thánh nhân 居 中 有 聖 人
Thiên bảo mệnh thường tân 天 保 命 常 新
Lý hội tam tài chính 理 會 三 才 正
Tuy hoài vạn quốc tân. 綏 懷 萬 國 賓
(Ở chính giữa có bậc thánh / Trời bảo vệ nên mệnh thường mới / Lý tụ hội, ngôi tam tài chính đáng / Giữ sự yên ổn, muôn nước chầu về).
Hoặc ở điện Long An, có bài thơ làm vào dịp ban sóc (phát lịch) của vua Thiệu Trị cũng biểu hiện tương tự: Thiên địa âm dương hàm định phán / Đế vương thống kỷ vĩnh tuyên chiêu 天 地 陰 陽 咸 定 判 / 帝 王 統 紀 永 宣 昭 (Âm dương trời đất đều phân định rạch ròi / Kỷ cương pháp chế của đế vương mãi ban truyền).
Quan niệm về mệnh trời của Nho giáo cũng đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong phong tục cổ truyền, điển hình nhất là lễ Tế Giao (tế trời, cầu mưa thuận gió hoà), chỉ có Thiên tử mới được làm chủ tế v.v. Trời được quan niệm với một uy đức mang tính phổ quát, cho nên người đứng đầu đất nước, thay trời để điều hành xã hội, phải thuận lòng trời mới có thể làm cho muôn dân ấm no, hạnh phúc, ngược lại, nếu trái ý trời thì muôn dân sẽ lâm vào kiếp nạn đắng cay, khổ nhục. Đó là quan niệm có tính tuyệt đối hóa về vai trò quyết định của mệnh trời. Con người vũ trụ trong thơ trên kiến trúc vì vậy mới xuất xử theo đạo trời, nhập tàng cùng tạo hóa:
- Vạn hóa dao nguyên hoàng giác diệu 萬 化 瑶 源 皇 覺 妙 (Vạn loài giáo hóa càng huyền diệu, thơ trên đình Hương Nguyện, chùa Linh Mụ);
- Lục hợp đồng xuân chuyển hóa ky 六 合 同 春 轉 化 機 (Lục hợp [trời đất và bốn phương] theo mùa xuân mãi vận hành, thơ trên điện Long An);
- Điều nguyên tán hóa công 調 元 贊 化 功 (ngợi ca công của tạo hoá đã điều hòa nguyên khí); Tài thành diệu hóa công 裁 成 妙 化 工 (Kỳ diệu công tạo hóa đã vun trồng công, thơ trên điện Thái Hòa);
- Thiên mệnh hách hách / Dư linh hoàng hoàng / Nhất nguyên đồng vận / Tứ phương vi cang 天 命 赫 赫 / 餘 靈 皇 皇 / 一 元 同 運 / 四 方 為 綱 (Mệnh trời hiển hách / Bậc thánh nhân là người cao minh chính đại / Cùng vận hành theo nguyên lý “nhất nguyên” (tam giáo nhất nguyên hoặc tam giáo đồng nguyên) / Là giường mối của muôn nước, thơ trên Triệu Miếu).
Từ con người vũ trụ hòa ái trong cõi thiên- địa- nhân, đề cao và làm theo “thiên mệnh” để quản lý, điều hành xã hội, quan niệm về con người trong thơ trên kiến trúc cung đình Huế còn được đề cập theo quan niệm đạo đức, nghĩa lý xã hội. Do vậy, khuynh hướng mô tả con người gắn với sự giáo huấn thông qua chủ đề đạo đức có khuynh hướng phổ biến.
2. Con người xã hội coi trọng đạo đức
Thời Nguyễn, lực lượng sáng tác đều xuất thân từ lớp nho sĩ khoa bảng, chủ yếu là quan lại, kẻ sĩ và đặc biệt là lớp thi sĩ hoàng đế, hoàng thân. Họ đều xuất thân từ nền giáo dục Khổng học, nên việc trước tác văn chương suy đến cùng vẫn là đề cao tư tưởng Nho giáo với tinh thần “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí”, đề cao đạo đức phong kiến với chủ đích: "Để thuận cái lý tính mệnh gốc ở lòng mình; Để tỏ văn tự dọc ngang thông cùng đạo trị. Văn như thế thực để tỏ rõ; Sự tốt đẹp của trị hóa, làm trống kèn thời thái bình" (Văn dĩ tải đạo phú) [3, tr.150]. Văn chương nói chung đã có thể trở thành một phương tiện hữu ích trong việc duy trì và bảo vệ tôn ti trật tự xã hội. Do vậy, nội dung thơ trên kiến trúc cung đình Huế cũng xuất hiện hình tượng con người với quan điểm đề cao giá trị đạo đức của tư tưởng nho giáo.
Trong học thuyết Nho giáo, “Đạo nhân” của Khổng Tử chủ yếu nhấn mạnh nội dung học tập, rèn luyện, tu dưỡng nhân cách hoàn thiện, để làm người; đến Mạnh Tử thì đề cao việc vận dụng thực hành “Đạo nhân” trong chính trị và điều chỉnh các quan hệ xã hội, phát triển thành tư tưởng nhân nghĩa. Thơ trên kiến trúc cung đình Huế thể hiện giá trị đạo đức Nho giáo thông qua việc khẳng định nội dung về “đạo nhân” (đạo đức, nhân nghĩa, nhân đạo, nhân văn). Nhiều bài thơ đã nêu quan niệm về con người thông qua đạo đức, đánh giá về tác dụng của đạo đức, nhân nghĩa, đề cao chữ “nhân”:
Nghĩa nhân chiêu tráng lệ 義 仁 昭 壯 麗
Đạo đức trọng uy linh 道 德 重 威 靈
Bạch nhật khai long các 白 日 開 龍 閣
Hồng vân ủng phụng đình 紅 雲 擁 鳳 庭
(Nhân nghĩa làm rực rỡ thêm sự tráng lệ / Đạo đức làm tăng thêm sự uy linh / Nắng sáng mở ra trên gác rồng / Mây hồng ôm lấy sân phụng, thơ trên điện Thái Hòa). Hoặc là:
Bồi triệu nhân cơ thùy thế trạch 培 肇 仁 基 垂 世 澤
Sùng thành cảnh thước hà thiên hưu 崇 成 景 鑠 荷 天 休
(Bồi đắp nền nhân lưu phúc đức / Kính cẩn thành tâm hưởng an lành, thơ trên Triệu Miếu).
Quan niệm về con người đạo đức do vậy cũng tương đồng với con người nhân nghĩa. Nhân (nhân nghĩa) như một mệnh đề phổ quát xuyên suốt theo các quan niệm, tư tưởng. Đó cũng là tư tưởng nhân trị (cai trị bằng đức nhân), coi con người như bản thân mình, đức nhân được xem là nội dung cốt lõi của tu thân. Do vậy, không phải ngẫu nhiên ngay ở Nghi Môn cầu Trung Đạo (Hoàng Thành) có bức hoành phi pháp lam với nội dung Cư nhân do nghĩa (居 仁 由 義 - sống theo lòng nhân, làm theo điều nghĩa). Cũng không ngẫu nhiên trong khi tất cả các cửa vào ra Kinh Thành đều đặt tên theo phương vị (Chính Đông Môn, Đông Nam Môn, Chánh Tây Môn, Tây Nam Môn, v.v), thì hai cửa chính ra vào Kinh Thành được đặt tên là Thể Nhân Môn (體 仁 門 - thể hiện điều nhân nghĩa) và Quảng Đức Môn (廣 德 門 - mở rộng đức độ). Càng không phải ngẫu nhiên hai cửa hông ra vào Hoàng Thành được đặt tên là Hiển Nhân Môn (顯 仁 門 - làm rõ điều nhân nghĩa) và Chương Đức Môn (彰 德 門 - làm rực rỡ đức độ). Hai câu thơ trên điện Thái Hoà đã tiếp tục cổ xuý cho mệnh đề nhân đức đó:
Hậu trạch thâm nhân hà nhĩ mộ 厚 澤 深 仁 遐 邇 慕
Thần công thánh đức sử thư thùy 神 功 聖 德 史 書 垂
(Ơn nặng nhân sâu gần xa mến / Công thần đức thánh sử thư truyền).
Những nội dung này rõ ràng đã quảng bá cho khái niệm nhân- đức, được ghi nhận hiện hữu trên kiến trúc với chủ đích nhất định của triều Nguyễn. Việc “chương đức”, “quảng đức”; việc “hiển nhân”, “thể nhân”, theo đó mà được “triển khai”, thơ trên kiến trúc cung đình Huế đã khái quát hình tượng con người hành xử theo nhân- đức như một mệnh đề được phát triển có tính hệ thống với các luận điểm cụ thể, rõ ràng. Một bài thơ trên Thế Miếu đã khái quát nên khát vọng vươn tới cái đức của triều đại:
Đột ngột thiên tằng tuấn 突 屼 千 層 峻
Trừng ngưng vạn khoảnh thâm 澄 凝 萬 頃 深
Sơn xuyên tranh thịnh đức 山 川 爭 盛 德
Tiêu cự biểu thành tâm 蕭 秬 表 誠 心
(Vút cao ngàn tầng núi / Trong vắt vạn dòng sâu / Non sông tràn đầy đức / Hương rượu tỏ lòng thành).
Trước hết, xuất phát từ quan niệm thời trung đại, xem sự vật cũng có những thuộc tính như con người, gán “tâm” cho sự vật, xem sự vật khách quan cũng có thuộc tính chủ thể, nên cái đức được nhận thức như một “tồn tại khách quan” trong sự vật, hiện tượng:
- Xem trời cũng có tính đức: Nhật nguyệt quang thiên đức (日 月 光 天 德 - Đức trời sáng cùng nhật nguyệt, thơ trên lăng Đồng Khánh); Thiên giám quyết đức (天 鑒 厥 德 - Trời soi xét đức hạnh, thơ trên Triệu Miếu); La hàm đức khả quan (羅 含 德 可 觀 - Có thể thấy được cái đức bao trùm của trời, thơ trên điện Long An).
“Mẫu văn thơ phú” của triều Nguyễn có đoạn: “Đức không đâu xa mà đến; Xe đi đến đâu cũng đều thông. Theo phép cả đi trên mặt đất; Vốn chí công ở trong lòng trời. Làm đều đúng cả, không ngăn trở bề ngoài; Đi đâu cũng lợi, có giữ vững ở bên trong. Đấy là việc tốt của thánh nhân; Thấy xoay vần có công hiệu” (Dĩ đức vi xa phú - Bài phú lấy đức làm xe) [3, tr.152]. Minh Mệnh chính yếu cũng có đoạn: “Cái đức của Trời, Đất thường hiện ra cho thấy ở mùa xuân, mà cái việc đầu tiên của Thánh nhân cũng nhân đó tìm ra mối mà làm việc phước (…) Chính trong lúc trời ban cho, đất sinh ra làm đầu, nên trước hết phải ban bố điều nhân để ơn mưa móc được phổ cập đến với mọi người”[4, tr.323]. Triển khai như một luận điểm, thơ trên kiến trúc cung đình nói nhiều về chữ Đức (đạo đức, cái đạo để lập thân) là sự bày tỏ ước nguyện “đạt đức” của người quân tử trong tư tưởng Nho gia. Theo quan niệm của Khổng Tử, người quân tử nếu có ba điều “nhân - trí - dũng” thì có thể gọi là đạt đức. Về sau, Mạnh Tử loại yếu tố “dũng” và thay vào đó các yếu tố “lễ, nghĩa” tạo thành “tứ đức” gồm nhân - trí - lễ - nghĩa. Một đoạn thơ ở điện Long An khẳng định:
Bôi phù khúc ngạn không lưu thắng 杯 浮 曲 岸 空 留 勝
Nguyệt xạ phương chư tự hữu linh 月 射 方 諸 自 有 靈
Kích trọc dương thanh chương tứ đức 激 濁 揚 清 彰 四 德
Tàng châu hiến mỵ tựu trung hình 藏 珠 獻 媚 就 中 形
(Bờ cong thả chén, vẫn còn đây / Chiếu sáng muôn phương ánh nguyệt đầy / Gạn đục khơi trong nêu tứ đức / Ngọc xinh giấu kín lại phô bày).
Đến thời Hán, Nho giáo bổ sung thêm yếu tố “tín” và trở thành “ngũ thường” với đầy đủ: nhân - nghĩa - lễ - trí - tín. Đó là 5 yếu tố thuộc nội hàm của khái niệm đức, là cái đạo để lập thân của người quân tử. Ngoài tiêu chuẩn ấy, người quân tử còn phải biết thi, thư, lễ, nhạc, phải thể hiện vốn văn hóa toàn diện. Đó là những yếu tố có những quan hệ ràng buộc chặt chẽ, đức và văn là những phạm trù không thể tách biệt. Tất nhiên, hơn ai hết, bậc thánh nhân phải làm sáng được cái đức của người quân tử: Linh đức cao tiêu quân tử tháo / Thánh nhân vị tác ái tài chương 靈 德 高 標 君 子 操 / 聖 人 為 作 愛 才 章 (Đức nêu tiết tháo người quân tử / Bậc thánh vì tài thích tụng ca, thơ trên điện Long An).
Đức là cơ sở, là thước đo, nên toàn bộ xã hội được xem xét, nhìn nhận, đánh giá trên một hệ thống quan niệm. Người quân tử phải không ngừng rèn luyện, tu thân trau dồi nhân cách và đạo đức nhằm phục vụ cho mục tiêu là tự thân hoàn thiện và giúp mọi người đạt đến sự nhận thức và hành động về đạo đức ở mức cao nhất, khiến con người phải từ bỏ ác tà hướng đến thiện mỹ. Ở đây, con người đạo đức quân tử phải làm cho đức hóa đến muôn dân như một sứ mệnh, hình thành luôn một lối diễn đạt nghi thức trong thơ trên kiến trúc: Đồng nhân phu thánh hoá 同 仁 敷 聖 化 (Cùng điều nghĩa nhân phô bày sự giáo hóa của thánh nhân); Hà phương triêm thánh hóa 遐 方 霑 聖 化 (Phương xa thấm giáo hóa của bậc thánh); Cửu châu triêm thánh hoá 九 州 霑 聖 化 (Khắp Cửu châu đều thấm nhuần sự giáo hóa của vua) v.v. Đây là sự thể hiện cao nhất là đạo nhân đã được giáo hóa đến khắp nơi qua một bài thơ ở điện Thái Hòa:
Suất thổ triêm hoàng hóa 率 土 霑 皇 化
Như thiên phổ đế nhân 如 天 溥 帝 仁
Cửu cù ca Thuấn đán 九 衢 歌 舜 旦
Tứ hải vọng Nghiêu vân 四 海 望 堯 雲
(Khắp nơi đều thấm giáo hóa của hoàng đế/ Dường như đâu cũng rõ lòng nhân của vua/ Chín nẻo ca ngợi ngày của vua Thuấn/ Bốn biển ngắm mây của vua Nghiêu).
Bàn về cốt lõi của chữ “đạo”, sách Đại Học có viết: “Đạo học lớn cốt để phát huy đức sáng, đức tốt đẹp của con người, đổi mới khiến lòng dân bỏ cũ theo mới, bỏ ác theo thiện, khiến mọi người đạt đến mức độ đạo đức hoàn thiện nhất. Có hiểu được phải đạt đến mức độ đạo đức hoàn thiện nhất thì mới kiên định chí hướng”[5, tr.11]. Thơ ở đây còn thể hiện niềm ước vọng, nỗi khát khao để đạt được “đỉnh cao” của tu thân: Thế đức tác cầu (世 德 作 求 - Mong đức để đời, thơ ở điện Long Ân, lăng Dục Đức). Có thể thấy rằng, chủ đề đạo đức, khuynh hướng giáo huấn nhân nghĩa là có tính phổ biến đối với thơ trên kiến trúc cung đình Huế. Giáo huấn nhân nghĩa là nội dung được đề cập đến nhiều lần và cũng được trình bày như những luận đề có chủ ý:
- Lộ trích nhân thiên lưu ngọc dịch (露 滴 仁 天 流 玉 液 - Sương buông xuống sự nhân nghĩa của trời lưu trong dòng nước ngọc, thơ trên Triệu Miếu);
- Như thiên phổ đế nhân (如 天 溥 帝 仁 - Dường như khắp trời đâu cũng rõ lòng nhân của vua, thơ trên điện Thái Hòa);
- Ưu du phùng thịnh đán / Phú thứ hữu hoàng nhân (優 游 逢 盛 旦 / 富 庶 囿 皇 仁 - Nhàn hạ khi gặp ngày thịnh trị / Lấy nhân nghĩa của bậc thánh hoàng mà quy tụ mọi người, thơ trên Hưng Miếu);
- Nghĩa nhân chiêu tráng lệ (義 仁 昭 壯 麗 - nghĩa nhân sáng tỏ thêm cho sự tráng lệ, thơ trên điện Thái Hòa) v.v.
“Nhân” chính là vấn là vấn đề mấu chốt trong tu dưỡng của con người trong các mối quan hệ, trở thành quy chuẩn điển phạm để rèn luyện không ngừng: Chỉ ư chí thiện tuân kinh sử / Hành bất vi nhân pháp điển mô 止 於 至 善 遵 經 史 / 行 不 違 仁 法 典 謨 (Tuân theo kinh sử “chỉ ư chí thiện”/ Noi theo phép tắc làm không trái đức nhân, thơ trên lăng Minh Mạng). Đó cũng là sự ghi lòng theo kinh sử. Sách Đại Học nhấn mạnh: Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ hoàn thiện (大 學 之 道, 在 明 明 德, 在 親 民, 在 止 於 至 善: Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện).
Nếu như những giáo huấn nhân nghĩa trên được trình bày, đề cập như những mệnh đề có tính “lý luận”, thì hai bài thơ sau đều cùng ở điện Thái Hòa là những “thực hành” về điều nhân ấy. Chỉ là một câu chuyện đánh cá, rồi phóng thích, nhưng nội dung lại bàn đến lòng nhân của con người, lòng nhân trong xử thế:
Đả ngư hà thuỷ bạn 打 魚 河 水 畔
Phóng dưỡng hậu đình tân 放 養 後 庭 濱
Nội ngoại ái tăng biệt 內 外 愛 憎 別
Dụng tâm nhân bất nhân 用 心 仁 不 仁
(Đánh cá bên dòng sông / Lại đem thả xuống nuôi ở hồ sau / Trong ngoài phân biệt rõ yêu ghét / Quan trọng là dùng tâm ý nhân nghĩa hay không nhân nghĩa, thơ trên điện Thái Hòa). Hay là:
Hà dao hồ nãi cận 河 遙 湖 乃 近
Phi ái diệc hà sân 非 愛 亦 何 瞋
Thủy hoạch nhi chung phóng 始 獲 而 終 放
Nghiệm chi tắc thị nhân 驗 之 則 是 仁
(Sông ở xa, hồ thì gần / Không yêu cũng chẳng cớ gì mà giận / Lúc đầu bắt (cá) mà sau cùng cũng phóng thích / Suy đến cùng đó là ở lòng nhân, thơ trên điện Thái Hòa).
Để cuối cùng đỉnh cao của sự giáo hóa về nhân nghĩa trong thi ca là sự thể hiện khát vọng về một chữ nhân phổ quát khắp cùng, lòng nhân được nhân lên với mọi quốc gia, dân tộc: Bán thiên khai Thái vận / Vạn quốc hữu đồng nhân 半 千 開 泰 運 / 萬 國 有 同 仁 (Người hiền tài mở ra vận hanh thông / Muôn nước đều có cùng sự nhân nghĩa, thơ trên điện Thái Hòa).
Nhìn chung, từ đạo đức đến nhân nghĩa, thơ trên kiến trúc cung đình Huế là sự khái quát, giáo hóa đức nhân với những chuẩn mực phong kiến. Đức và nhân là điều kiện cần của người quân tử, bậc thánh nhân gắn liền với chức phận và sứ mạng của đấng trượng phu. Trên hết, đó là sự chuyển tải những giáo lý Nho gia thông qua hình tượng con người đạo đức đề cao nhân nghĩa gắn liền với con người vũ trụ hòa ái thiên nhiên. Không dừng ở đây, thơ trên kiến trúc cung đình Huế còn đề cập đến kiểu con người đấng bậc với ý thức sứ mệnh rõ nét.
3. Con người đấng bậc ý thức sứ mệnh
Đối với thời trung đại của các nước đồng văn, quan niệm về cái đẹp gắn với con người được nhận thức theo tôn ti, tầng bậc trong xã hội: quân tử - tiểu nhân, quý tộc - bình dân, thượng lưu - dân dã, được khái quát thành 12 hạng người chủ yếu là công, hầu, khanh, tướng; sĩ, nông, công, thương; ngư, tiều, canh, mục.
Thời trung đại đề cao con người quân tử hiểu mệnh trời, xem quân tử là giai đoạn tiến hóa cao của tiểu nhân. Quân tử thì phải biết rèn luyện nhân nghĩa nhằm tiếp tục giáo hóa tiểu nhân từ bỏ dục vọng bản năng để hướng thiện, cải tà quy chánh. Quan niệm này đã hình thành nên hình tượng con người đấng bậc. Thơ trên kiến trúc cung đình Huế khi quan niệm về con người đấng bậc với ý thức sứ mệnh đã làm nên một hệ thống các đối tượng trong xã hội, từ người đứng đầu là chủ thể quản lý tối cao như bậc đế vương (với nhiều cách định danh), là chủ thể quản lý thừa lệnh các vương thần (công, hầu, khanh, tướng) đến đối tượng quản lý là thần dân (cũng với nhiều cách định danh) thậm chí là những đối tượng rất cụ thể như người học thức (sĩ), người dân thợ (công), người dân cày (nông), người dân chăn trâu (mục). Ví dụ như:
- Chỉ đối tượng cá nhân, từ cao đến thấp: người đứng đầu như Thiên tử (天 子- con trời), Đế vương (帝 王 - nhà vua), Thánh đế (聖 帝 - nhà vua), Thánh nhân (聖 人 - bậc thánh, nhà vua), Thánh hoàng (聖 皇 - nhà vua), Đại nhân (大 人 - đại nhân, chỉ vua); các loại người khác trong xã hội như Tư dân (斯 民 - người dân ấy), Cao sĩ (高 士 - kẻ sĩ thanh cao), Xảo tượng (巧 匠 - người thợ lành nghề), Nông (農 - nhà nông), Mục (牧- mục đồng, người chăn trâu) v.v.
- Chỉ đối tượng tập thể, từ cụ thể đến khái quát như Vương thần (王 臣 - đình thần của vua, Thần dân (臣 民): đình thần và người dân, nhân dân, Dân (民 - người dân), Thiên hạ (天 下 - mọi người), Quần sinh (群 生 - mọi thần dân), Vạn tính (萬 性 - vạn họ, nhân dân), Bách tính (百 性 - trăm họ, nhân dân), Hậu sinh (後 生 - lớp người sau), v.v.
Đó quả thực là một bức tranh xã hội với nhiều hạng người tồn tại trong ngôn ngữ thơ. Điều này nói lên rằng, con người đấng bậc trong thơ trên kiến trúc cung đình Huế trước hết đã được phản ánh qua tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
Con người đấng bậc trong thơ trên kiến trúc cung đình Huế xuất phát từ tinh thần tự tôn dân tộc để đề cao triều đại, đề cao vị thế quốc gia. Trong lịch sử, Trung Hoa luôn xem Việt Nam và các nước khác trong khu vực nước nhỏ, chịu sự lệ thuộc nước lớn, là chư hầu của nước lớn. Văn kiện ngoại giao của Trung Hoa gửi Việt Nam trước đây thường xuất hiện cụm từ Việt Nam quốc vương (越 南 國 王) - quốc vương là một khái niệm chỉ vua các nước chư hầu của Trung Hoa. Nhưng đã trải nghìn năm, ý thức dân tộc khiến cho người Việt Nam đã có ý tách ra, các vị vua đều xưng là Hoàng đế. Từ năm 981, vị thế nước ta bấy giờ từng khẳng định qua cách xưng trong Nam quốc sơn hà Nam đế cư (南 國 山 河 南 帝 居). Đến thời Nguyễn tính cách đế này càng rõ nét ở nhiều khía cạnh. Bằng cách công bố tính cách “đế” với chân mệnh “thiên tử” qua ngôn ngữ hành chính và ngôn ngữ nghệ thuật, triều Nguyễn cũng đã tiếp tục khẳng định vị thế của đất nước trong quan hệ với các nước khác. Trong thơ trên kiến trúc cung đình Huế, chân mệnh thiên tử đó càng được khẳng định đậm nét khi sử dụng đến 346 lượt khái niệm chỉ hoàng đế, thánh nhân với 89 lần đế (帝), 116 lần hoàng (皇) và 141 lần thánh (聖) trên tổng số hơn 1.000 bài thơ! Đó còn là cách để khẳng định sự chính danh trong quan điểm Nho giáo, sự vật phải ứng với tên gọi, mỗi người phải làm đúng với chức phận của mình, mọi người cần phải nhận thức và hành động theo đúng địa vị của mình. Trong điều hành đất nước, chính danh thể hiện qua việc hướng xã hội đến một tôn ti, trật tự rõ ràng. Có thể thấy rằng, trong đặc điểm ngôn ngữ, cùng với các văn bản hành chính có tính chất quản lý nhà nước vào thời Nguyễn thuộc thẩm quyền ban hành của nhà vua như: chiếu, lệ, lệnh, chỉ, dụ, sắc cùng một số công văn khác, ngôn ngữ thơ trên kiến trúc cung đình Huế thường xuất hiện từ đế vương, thiên tử, thánh nhân, thánh hoàng đã biểu hiện rõ những ý đồ của triều Nguyễn, nhắm vào hai mục đích: một là, trong quan hệ đối nội, khiến cho trăm họ thấy rằng đây là triều đại mới thiết lập, sự lên ngôi chính thống của vị vua mới, xã hội đã được xác lập tôn ti; hai là thực hiện ý đồ đối ngoại, công bố về quyền tự chủ của đất nước đối với các nước khác. Có thể thấy điều này rất rõ trong thơ trên kiến trúc cung đình Huế:
- Thiên địa âm dương hàm định phán / Đế vương thống kỷ vĩnh tuyên chiêu 天 地 陰 陽 咸 定 判 / 帝 王 統 紀 永 宣 昭 (Trời đất âm dương phân định rõ / Đế vương pháp chế lại ban truyền, thơ trên điện Long An);
- Càn thủy khôn sinh tham đại hóa / Vương công đế đạo xiển hồng du 乾 始 坤 生 參 大 化 / 王 功 帝 道 闡 鴻 猷 (Vận trời mới đất sinh sôi dự phần vào vũ trụ / Công vua, đạo hoàng đế mở kế sách lâu dài, thơ trên Triệu Miếu);
"Tính cách đế" ấy cũng nhiều lần khẳng định trong thơ trên điện Thái Hòa: Quần phương ca đế đức 群 方 歌 帝 德 (Muôn phương ca tụng đức của hoàng đế); Xuân phong mãn đế đô 春 風 滿 帝 都 (Gió xuân tràn ngập khắp kinh đô của hoàng đế); Quần tinh củng đế xu 群 星 拱 帝 樞 (Muôn vì tinh tú củng cố nghiệp đế); Sơn hà tráng đế cư 山 河 壯 帝 居 (Núi sông tráng lệ tại đế đô); Thiên niên điện đế cơ 千 年 奠 帝 基 (Ngàn năm định hình cơ nghiệp của hoàng đế), v.v.
Ý thức sứ mệnh được khái quát trên bình diện tinh thần, suy nghiệm qua các hình thức tu dưỡng, tự khẳng định mình bằng cách gắn bản thân với đạo, nhằm không ngừng hoàn thiện nhân cách. Con người đấng bậc trong thơ trên kiến trúc cung đình Huế nói nhiều về chữ “đạo” của người quân tử. Ở điện Thái Hòa có các câu như: Chấp trung hoằng đế đạo 執 中 弘 帝 道 (Sự ngay thẳng mở ra cái đạo của hoàng đế); Đãng bình khai đế đạo 蕩 平 開 帝 道 (Giữ sự ngay thẳng mà mở ra đạo của hoàng đế); Phỏng cổ hành vương đạo 倣 古 行 王 道 (Phỏng theo xưa để thi hành vương đạo); Thánh nhân cửu kỳ đạo 聖 人 久 其 道 (Bậc thánh nhân từ lâu đã vững đạo lý) v.v; ở Ngọ Môn như Thiên đạo thái lai thì 天 道 泰 來 時 (Đạo trời vận hành thông suốt); Hành đạo tế thời hiền 行 道 濟 時 賢 (Thời nay người hiền tài thực hành đạo giúp đời); ở Thế Tổ Miếu như Vương công đế đạo xiển hồng du 王 功 帝 道 闡 鴻 猷 (Công vua, đạo hoàng đế đế mở kế sách lâu dài); ở điện Long An như Vi chính đắc nhân long trị đạo 為 政 得 人 隆 治 道 (Gây nghiệp được người tôn quý chỉnh trang đạo lý); ở đình Hương Nguyện chủa Linh Mụ như Phật nhật tăng huy đế đạo long 佛 日 增 輝 帝 道 隆 (Phật pháp ngày càng thêm rạng rỡ, đạo của hoàng đế lớn lao thay), v.v.
Chữ đạo mà Nho giáo quan niệm thực chất là những tác động thúc đẩy sự hình thành và chuyển hóa sự vật, hiện tượng trong vũ trụ, những chuyển biến không ngừng trong mối quan hệ tam tài (thiên- địa- nhân) trong mô hình trật tự của hai chiều âm - dương. Người quân tử nắm được quy luật này để điều chỉnh, rèn luyện. Nho giáo nhấn mạnh đến “Đạo nhân” (đạo làm người), đó là những quy phạm đạo đức và luân lý, là những nguyên lý trị quốc và xử thế của con người. Một cách khái quát thì đó chính là chuẩn mực đạo đức mà con người có nhiệm vụ bảo vệ và thực hành trong cuộc sống. Đó là nhân sinh quan, là quan niệm sống trong sạch, là thực hành theo lẽ phải. Theo quan niệm này, các nguyên tắc về tam cương, ngũ thường, trung hiếu, tam tòng, tứ đức luôn được đề cao và thực hành. Thực hành tốt thì có thể gọi là người “đạt đạo”, “đạt đức” và trở thành người quân tử, bậc trượng phu trong xã hội.
Con người đấng bậc trong thơ trên kiến trúc cung đình Huế còn thể hiện ở thái độ tôn xưng với những con người bề trên, phân biệt với những người khác. Điều này được thể hiện rõ nét nhất là ở hệ thống thơ trên Thế Miếu và điện Long Ân lăng Dục Đức. Cách miêu tả của thơ tại Thế Miếu và điện Long Ân chịu sự chi phối của quan niệm đấng bậc về con người. Trong quan niệm của hệ thống thơ tại hai kiến trúc này nổi lên hình ảnh của các vị vua tiền nhiệm, các bậc thánh hiển linh, đều được quan niệm là những “đấng”, những “bậc” khả kính. Đối với những nhân vật này, ngôn ngữ thơ dành cho những lời trang trọng, tượng trưng.
Hoàng hoàng chính thống khải trùng tân 皇 皇 正 統 啟 重 新
Chinh phạt do lai trượng nghĩa nhân 征 伐 由 來 仗 義 仁
Biện hữu bát niên cần phủ tự 卞 有 八 年 勤 撫 字
Chưng lê cộng khánh thái bình xuân 烝 黎 共 慶 太 平 春
(Lớn lao nối nghiệp lại trùng tân / Chinh chiến xưa nay lấy nghĩa nhân / Vội vã tám năm trời phủ dụ / Toàn dân vui hưởng thái bình xuân, thơ trên Thế Miếu).
Nội dung của các bài thơ này chủ yếu biểu thị một thái độ tôn xưng đối với các bậc vua chúa tiền nhiệm, tán tụng công đức gây dựng cơ đồ, khai sáng triều đại, xây dựng một đất nước hùng cường, mở rộng bờ cõi của vị hoàng đế đầu triều.
Từ ý thức sứ mệnh, khẳng định vai trò hoàng đế với sự chính danh ngôi vị, con người đấng bậc còn thể hiện với trách nhiệm tối cao là “chăn dân”, mà cái ăn của dân là quan trọng hàng đầu như câu thơ ở điện Thái Hòa: Bất ưu tần khốc thử / Thả hỷ dụ dân thiên 不 憂 頻 酷 暑 / 且 喜 裕 民 天 (Không lo khi luôn nắng nhiều/ Hãy mừng vì cái ăn của dân được đầy đủ).
Hoặc là câu thơ ở điện Long An: Niệm niệm dân thiên thiết ngã tư / Cận nhân vị hạ lãn ngâm thi 念 念 民 天 切 我 思 / 近 因 未 暇 懶 吟 詩 (Mong ngóng cho cái ăn của dân là điều cấp thiết mà ta lo nghĩ / Đó là nguyên nhân mà khi nhàn hạ khó có thể ngâm thơ).
Hay là câu thơ ở lăng Minh Mạng: Tiêu cán dân thiên truân dữ niệm / Nhất tình nhất vũ ngã tam tư 宵 旰 民 天 肫 與 念 / 弌 晴 弌 雨 我 三 思 (Đêm ngày luôn ghi nhớ lo cái ăn cho dân / Mỗi lần tạnh, mỗi lần mưa đều là nỗi lo của ta).
Các câu thơ trên có sức khái quát về một con người đấng bậc với ý thức sứ mệnh rõ nét. “Dân thiên” chính là nghĩa rút gọn từ quan niệm “Dân dĩ thực vi thiên” (Dân lấy cái ăn làm trời). Đây là một câu trong sách Hán Thư “Vương giả dĩ dân vi thiên, dân dĩ thực vi thiên” (王 者 以 民 為 天 民 以 食 為 天 - Bậc làm vua thì lấy dân làm trời, còn dân thì lấy cái ăn làm trời). “Dân lấy miếng ăn làm trọng, nên muốn trị dân, trước hết phải làm cho dân no ấm, vì dân đói thì nước loạn (…) nước loạn hay nước yên là tùy ở dân bị đói kém hay no đủ” [6, tr.192]. Con người vì vậy mà luôn ưu tư trước cảnh thiên tai, mất mùa, trước những dự báo xấu về đời sống nông nghiệp: Tây trù giai mãn tiến / Nam mẫu hựu tàn tiện 西 疇 皆 滿 洊 / 南 畝 又 殘 賤 (Ruộng miền Tây đều đầy nước lụt / Ruộng miền Nam lại bị hư hại, thơ trên lăng Thiệu Trị).
Đó quả là những điển hình về con người của tấm lòng, của trách nhiệm chăn dân, thể hiện cách bày tỏ quan điểm của mình. Ý thức sứ mệnh của con người đấng bậc về trách nhiệm xã hội cũng chú trọng vào lĩnh vực chính trị, đạo đức, những vấn đề quyết định sự an nguy của triều đại, sự ổn định của xã hội. Điều này còn được nhiều lần chứng minh trong sử sách. Khi quở phạt quan lại địa phương chậm trễ trong việc cứu đói cho dân bị mất mùa, hoàng đế Minh Mạng từng xuống dụ rằng: “Trước đây tại Nam Định gạo kém, đã ra ân dụ phát gạo kho ra năm vạn hộc để bán, cho vay, hoặc phát chẩn cho dân được nhờ đó mà thư thái. Đáng lẽ phải lập tức tuân làm để đỡ cấp thiết cho dân (…); vả lại giúp đỡ người nghèo khó, sớm một ngày là dân được nhờ một ngày, sao lại còn phải kê cứu chậm trễ như thế. Sỡ dĩ dân đói không thể sống được, lỗi ấy tại ai?” [4, tr. 282]. Con người đấng bậc vì vậy mới chan hòa vào niềm vui được mùa của dân. Trên đường tạm nghỉ bên ao (池 塘 小 憇 Trì đường tiểu khế, thơ trên điện Long An), con người đó đã bày tỏ những tình cảm, suy tư của mình:
Kỷ hồi vô hạ nhật 幾 回 無 暇 日
Đắc vũ vị lai lâm 得 雨 為 来 臨
Thời nhược niên phong lạc 時 若 年 豐 樂
Dân tâm tức ngã tâm 民 心 即 我 心
(Mấy lâu không ngày rảnh rỗi / Nay vì được trời mưa mới đến đây / Mong thuận thời để dân vui vì được mùa / Vì lòng dân tức là lòng ta).
Thơ trên kiến trúc cung đình Huế bên cạnh sự xuất hiện của con người vũ trụ, đấng bậc với những trăn trở về nghĩa vụ “kinh bang tế thế”, còn thể hiện những nỗi day dứt về những con người đời thường. Đó còn là ý thức sứ mệnh cùng với nghĩa vụ trong quan hệ cộng đồng.
Thuân tuần mẫn mục đê 逡 旬 憫 牧 胝
Bạt thiệp bì ngưu thác 跋 涉 疲 牛 跅
Cánh phục nậu điền nê 更 復 耨 田 泥
Bất đồ canh thổ tháp 不 徒 耕 土 塌
(Lo lắng cho vết chai của kẻ mục đồng / Theo con trâu phóng túng lặn lội mỏi mệt khắp nơi / Vừa lại bừa ở đất bùn / Lại phải cày ở đất trũng, thơ trên điện Thái Hòa).
Đến đây, từ con người đấng bậc, con người trong thơ trên kiến trúc cung đình Huế đã “chuyển hóa” thành con người có dấu ấn cá nhân, phản ánh cái tôi giãi bày, diễn tả những tình cảm riêng tư. Tuy không xuất hiện nhiều, nhưng đó cũng là điểm đáng ghi nhận trong hình tượng nghệ thuật con người đấng bậc với những ý thức sứ mệnh của người cầm cân nảy mực trong xã hội. Trong thơ trên kiến trúc cung đình Huế hầu như con người cá nhân chưa được ý thức để xây dựng thành một hình tượng nghệ thuật có hệ thống. Điều này dĩ nhiên xuất phát từ cơ sở xã hội phong kiến về phương diện kinh tế, không dựa trên nền tảng cá nhân. Vì vậy các giá trị cá nhân không được đánh giá từ bản thân phẩm chất cá nhân mà ở vai trò của cá nhân trong mối quan hệ giai tầng, tương ứng với những chuẩn mực chung. Thơ trên trên kiến trúc cung đình Huế nói riêng cũng như thơ trung đại nói chung, con người xuất hiện theo phương thức đồng trục, đồng dạng về tư tưởng tình cảm, với các mối quan hệ xã hội, đạo đức, không mang hình sắc cá nhân.
Từ những phân tích về quan niệm nghệ thuật về con người, có thể thấy rằng, thơ trên kiến trúc cung đình Huế đã thể hiện một mảng chủ đề lớn trong việc phổ biến những nguyên tắc có tính chất đường lối căn bản của Nho giáo gắn liền với tư tưởng văn trị, lễ trị và nhân trị. Thể hiện qua quan điểm đề cao quản lý xã hội bằng tri thức, bằng sự hiểu biết; sử dụng các thiết chế xã hội, đề cao nghi lễ trong trị quốc và dùng lòng nhân ái để quản lý, điều hành xã hội. Xuất phát từ quan niệm nghệ thuật về con người gắn với các đặc điểm trên, không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ trên kiến trúc cung đình Huế được "triển khai" với các nội dung tính chất có tính "hô ứng", hòa vào dòng chảy của thế giới nghệ thuật đặc biệt này.
*
Từ việc phân tích tìm hiểu hình tượng nghệ thuật về con người cùng các mối quan hệ khăng khít của nó, đã cho thấy thơ trên kiến trúc cung đình Huế là một hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật mang sắc thái riêng, tiêu biểu cho trường thẩm mĩ, có những hình thức thể hiện mang đậm bản sắc. Thơ ở đây đã chuyển tải những ý thức thẩm mỹ, những quan niệm lý tưởng gắn kết cùng bối cảnh lịch sử xã hội nhất định qua những hệ tư tưởng mỹ học, triết học của riêng của chúng. Tiền đề cơ sở ấy là yếu tố không thể bỏ qua khi nghiên cứu thơ trên kiến trúc cung đình Huế nói riêng cũng như thi ca thời trung đại nói chung.
Hình tượng con người với tất cả những quan niệm bản chất như vậy được miêu tả trong sự hô ứng của cả thế giới không - thời gian cũng đầy quan niệm. Trong nghệ thuật, con người, không gian và thời gian đều được mô tả, tạo dựng dưới dạng hình tượng, vì thế không gian và thời gian nghệ thuật được xem là hình thức tồn tại của hình tượng con người. Do vậy, để tiếp tục tri nhận một cách đầy đủ về hình tượng nghệ thuật về con người thì tất yếu cần tiếp tục tìm hiểu về không gian, thời gian nghệ thuật trong thơ trên kiến trúc cung đình Huế.
N.P.H.T
Tài liệu dẫn:
[1]. Trần Đình Sử (1997). Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[2]. Tự Đức (1970). Tự Đức thánh chế văn tam tập (tập1), Ủy ban Dịch thuật Phủ Quốc vụ khanh đặc trách xb, Sài Gòn.
[3]. Nội các Triều Nguyễn (2005). Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (Trần Huy Hân, Nguyễn Thế Đạt dịch) Tập IV, Trung tâm khoa học XH & NV quốc gia (Viện Sử học), Nxb. Thuận Hóa, Huế.
[4]. Quốc Sử quán triều Nguyễn (2010). Minh Mệnh chính yếu, (Ủy ban Dịch thuật thuộc Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên Sài gòn dịch), Nxb. Thuận Hóa, Huế.
[5]. Vương Hồng, Vương Thành Trung (2003). Tứ thư (Trần Trọng Sâm, Kiều Bách Vũ Thuận dịch), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
[6] An Chi (2006). Chuyện đông chuyện tây, Tập 1, Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.