Văn nghệ dân gian
Sự tác động của bối cảnh lịch sử và văn hóa xã hội thời kỳ tiền Nguyễn đến nghệ thuật đồ đồng thời Nguyễn
15:31 | 31/03/2022

PHAN LÊ CHUNG

Sự tác động của bối cảnh lịch sử và văn hóa xã hội thời kỳ tiền Nguyễn đến nghệ thuật đồ đồng thời Nguyễn
Ảnh minh họa (Internet)

1. Bối cảnh lịch sử, văn hoá và xã hội

Hành trình tiến về phương Nam của chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) vào năm Mậu Ngọ (1558) đã mở ra một trang mới trong lịch sử dân tộc với công cuộc khai hoang vùng đất mới với nhiều khó khăn và thử thách. Cuộc ra đi của Nguyễn Hoàng dưới danh nghĩa là một vị tướng của triều Lê Trung Hưng vào Nam trấn thủ vùng Thuận Hoá đã đặt ra nhiều thử thách trong việc ổn định tình hình dân cư và phát triển kinh tế xã hội. Việc áp dụng nhiều chính sách an dân về văn hoá tín ngưỡng, khai hoang vùng đất mới, miễn thuế cho dân, mở rộng giao thương kinh tế biển đã làm cho xứ Đàng Trong trở thành khu vực kinh tế mới, thu hút nhiều quốc gia đến giao thương và trao đổi hàng hoá. Điều này đã làm cho khu vực đồng bằng sông Hồng không còn là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, xứ Đàng Trong (khu vực từ phía nam sông Gianh của Quảng Bình trở vào). Xứ Đàng Trong trong cuốn: “Đàng Trong thời chúa Nguyễn” được mô tả như sau: Vương quốc Đàng Trong [Cochinchina] kéo dài khoảng 150 dặm [lieues],  từ vĩ tuyến 11 đến vĩ tuyến 17. Phía Bắc giáp Đàng Ngoài [Tonquin], phía Nam giáp Chiêm [Ciampa], phía Đông là Ấn Độ Dương [thực ra là Thái Bình Dương], còn phía Tây là vương quốc Lào…]. [4, tr.37].

Có thể nói rằng tình hình văn hoá xã hội thời kỳ đầu Nguyễn có nhiều tính chất bất định bởi sự di dân vào Nam khá ồ ạt,  điều này dẫn đến sự hình thành của các làng xã hỗn hợp, tính chất hành chính vẫn chưa ổn định, còn lỏng lẽo chưa chặt chẽ. Sự tiếp cận với văn hoá Chăm bản địa cũng có ít nhiều xung đột tạo nên những tập tục văn hoá mới dung hoà giữa vùng bản địa. Với chính sách an dân trị quốc các chúa Nguyễn rất xem trọng sự ổn định về xã hội bởi bối cảnh xã hội trong thời kỳ đầu khá phức tạp. Trong những ngày đầu đặt chân đến Quảng Trị, Nguyễn Hoàng đã tiên liệu về việc sử dụng tín ngưỡng để thu phục lòng dân và Phật giáo đã được Nguyễn Hoàng cũng như các chúa đời sau chú trọng phát triển để làm chính sách an dân trị quốc, cũng chính bởi vậy trong thời gian này nhiều ngôi chùa đã được thành lập. Trên tinh thần đó năm 1601 ngôi chùa Thiên Mụ đã được xây dựng với sự gửi gắm ước vọng về một cuộc sống an lành của chúa Nguyễn cũng như người dân địa phương, Năm 1607, chùa Bảo Châu ở Quảng Nam cũng được xây dựng… Nhiều công trình liên quan đến Phật giáo đã được chú trọng xây dựng trong cùng thời kỳ. Sự lan toả mạnh mẽ của đạo Phật đã tác động rất lớn đến tình hình văn hoá và xã hội, trở thành một tín ngưỡng tâm linh mạnh mẽ và lan toả trong cộng đồng dân cư xứ Đàng Trong. Mô tả về diện mạo chung chùa chiền  trong thời kỳ này tác giả Cristophoro Borri trong cuốn “Xứ Đàng Trong năm 1621” đã viết: “Xứ Đàng Trong còn có rất nhiều đền chùa rất đẹp với tháp cao và lầu chuông. Mỗi địa điểm dù nhỏ bé đến đâu thì cũng có đền chùa thờ cúng thần Phật” [3, tr.118]. Bên cạnh đó, tín ngưỡng thờ mẫu cũng được phát triển trong thời kỳ này do có nhiều sự tương đồng về văn hoá bản địa và những người di cư theo chúa Nguyễn vào Nam. Chính điều này đã tạo nên một yếu tố tín ngưỡng mang yếu tố quy tụ, tránh các trường hợp xung đột về mặt văn hoá, tâm linh.

Cùng với việc xây dựng và củng cố chính quyền Đàng Trong đã cho xây dựng nhiều công trình vừa phục vụ dân sinh nhưng cũng có thể được trưng dụng trong thời chiến. Hoạt động đô thị được chia theo khu vực rõ rệt theo các đơn vị Dinh, đây cũng là cách gọi đơn vị hành chính cũng đồng thời là đơn vị quân đội. Trong thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XVIII, kinh tế nông nghiệp vẫn đóng vai trò chủ đạo ở Đàng Trong. Các chúa Nguyễn đã tăng cường mở rộng đất nông nghiệp thông qua các hoạt động khai phá các nương rẫy mới. Nhiều chính sách ưu đãi về thuế để phát triển nông nghiệp và khai hoang được áp dụng trong thời kỳ này. Đến thời kỳ này, Đàng Trong được đánh giá có nền nông nghiệp phát triển, đời sống người dân phát triển. “Với một dân số còn thưa thớt và nhất là khi lãnh thổ được mở rộng với những cánh đồng phí nhiêu của miền Tây Nam Bộ, nguồn lương thực luôn vượt quá nhu cầu… các canh tác lương thực tiếp tục chiếm ưu thế, trong đó đứng đầu là lúa gạo. Đây là nguồn lợi lớn của Đàng Trong: người dân được cung ứng một cách dư dật, hằng năm còn có dư để bán cho Đàng Ngoài…”. [4, tr.96].

Chính quyền Đàng Trong có chính sách mậu dịch đối ngoại rất cởi mở, vì vậy mậu dịch với các nước phương Tây bên ngoài phát triển mạnh mẽ. Một trong những điểm nhấn của thời Nguyễn là mở rộng giao thương về phía đường biển, tăng cường hoạt động trao đổi hàng hoá, quá trình này cũng đã thúc đẩy sự giao lưu văn hoá hai chiều với các quốc gia khác trên thế giới. Chính những điều này đã mang lại những nguồn lợi rất lớn về thuế cũng như xuất khẩu các mặt hàng trong nước. Đồng thời cũng là một kênh để các chúa Nguyễn có điều kiện củng cố về tiềm lực quân sự như mua các loại chất liệu để sản xuất vũ khí. Nhiều cảng biển đã được hình thành trong thời gian này, các khu cảng thị cũng vì vậy mà trở nên tập nập, thu hút dân cư tập trung quanh khu vực này như cảng Thanh Hà, Hội An… Đây cũng là khoảng thời gian chúng ta có sự giao lưu với các nước trong và ngoài khu vực thông qua các hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Trung Hoa… Chính sách mở cửa giao thương của các chúa Nguyễn trong giai đoạn này chúng ta cũng có sự giao lưu tiếp nhận các luồng văn hoá khác nhau trên thế giới. Có khá nhiều người nước ngoài đã đến định cư, làm ăn sinh sống thậm chí lấy vợ tại Việt Nam trong giai đoạn này. Các yếu tố giao lưu về văn hoá và phát triển các kỹ thuật từ các nước phương Tây vì vậy mà cũng được phát triển hơn, các yếu tố về văn hoá nghệ thuật cũng vì vậy mà được phát triển hơn theo hình thái phát triển của xã hội.

Bên cạnh đó, việc xuất phát từ một nền Nho giáo từ phía Đàng Ngoài vì vậy khi đến với vùng đất này Nguyễn Hoàng cũng không tránh khỏi những bỡ ngỡ ban đầu. Văn hoá có nhiều sự khác biệt so với tính chất bản địa, một trong những vấn đề khó khăn đặt ra trong thời kỳ này văn hoá Chăm bản địa quá mạnh đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tiếp xúc văn hoá của cư dân. Nguyễn Hoàng không thể sử dụng văn hoá của Nho giáo trong thời kỳ này bởi 2 lý do chính, thứ nhất ông vào xứ Đàng Trong với vai trò là tướng quân của triều đình nhà Lê, thứ hai là Phật giáo cũng có nhiều điểm tương đồng với văn hoá Chăm. Cụ thể trong các việc thờ Thiên Y A Na (bà mẹ xứ sở) đã thực sự là một hướng chọn hợp lý nhất trong thời gian này. Vì vậy đạo Mẫu cũng được chú trọng phát triển trong thời kỳ này. Các chúa Nguyễn cũng đã xây dựng nhiều công trình chùa chiền trong thời kỳ này để phục vụ cho tín ngưỡng của người dân. Phật giáo phát triển cực kỳ hưng thịnh ở giai đoạn này. Nguyễn Hoàng đã rất khéo léo trong việc sử dụng Phật giáo để trở thành yếu tố quy tụ lòng dân.  Tình hình kinh tế xã hội trong thời Nguyễn được đánh giá chung là ổn định và phát triển với các chính sách mở cửa, đây cũng là giai đoạn hai nước lớn là Trung Hoa và Nhật Bản tuyên bố bỏ lệnh cấm vận mở rộng quan hệ hợp tác, vì vậy giao thương cũng có nhiều điều kiện thuận lợi. Bên cạnh đó các chúa Nguyễn còn mở rộng với các quốc gia ngoài khu vực châu Á thông qua nhiều dạng tiếp cận với các thương nhân người Bồ Đào Nha, Hoà Lan (Hà Lan)… Dinh trấn Quảng Nam được thành lập năm 1602 do con trai thứ là Nguyễn Phúc Nguyên trấn giữ, trong thời kỳ này các chính sách về ngoại thương với các nước khác cũng được chúa Nguyễn chú trọng, cảng thị được chú trọng đầu tư ở hai khu vực chính là Hội An - Quảng Nam và Thuận Hoá. Sau khi chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) qua đời thì chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) đã hoàn thành những công việc đang còn dang dỡ của cha mình đó là tiếp tục sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Đánh giá về tình hình kinh tế xứ Đàng Trong trong bài viết: “Phố cảng Thanh Hà và dấu tích phố cổ” in trong tập: “Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1992” (Nxb Viện Khảo cổ học  - Trung tâm khoa học và xã hội nhân văn quốc gia 1993) Đỗ Bang đã mô tả:         “Cùng với Hội An, Thanh Hà là trung tâm buôn bán lớn của xứ Đàng Trong, là cửa ngõ của đô thành Phú Xuân trong các thế kỷ 17 – 18, Phố Cảng Thanh Hà ra đời vào năm 1636 sau khi chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ từ Phước Yên vào Kim Long – Phú Xuân, nơi đây đã hình thành khu phố Hoa Thương và tiếp đón thương khách của nhiều nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Pháp, Anh…”[1, tr.172].

2. Tác động đến nghệ thuật trang trí đồ đồng thời Nguyễn

Dưới thời các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, cơ chế hoạt động ngoại thương rất thông thoáng thông qua các chính sách mở cửa buôn bán với các nước phương Tây cũng như các quốc gia trong khu vực. Nguyễn Duy Chính trong cuốn “Đàng Trong thời chúa Nguyễn” đã miêu tả như sau: “Đàng Trong là một vương quốc có nhiều hoạt động ngoại thương với bên ngoài, với Trung Hoa, với các quốc gia Đông Nam Á và cả với Nhật Bản. Với vị trí thuận tiện đó, việc du nhập văn hoá đã xảy ra”. [4, tr.34]. Sự tác động của bối cảnh văn hoá và đời sống đã ít nhiều tác động đến hình thức trang trí và cũng là yếu tố nảy sinh ra hình tượng nghệ thuật. Điều này được thể hiện khá rõ trong các loại hình trang trí nghệ thuật Huế nói chung và đối với nghệ thuật trang trí trên đồ đồng nói riêng. Sự phát triển của phật giáo trong xã hội thời tiền Nguyễn  cũng là nguyên nhân cho sự phát triển các motif như hoa sen, chữ vạn, bánh xe luân hồi, lá đề… Sự giao thương với các nước phương Tây cũng là môi trương cho sự giao thoa các motif văn hoá phương Tây vào Việt Nam và được việt hoá và kết hợp với các hoa văn bản địa. Trong thời kỳ này yêú tố thẩm mỹ và yếu tố ứng dụng cũng được song hành cùng nhau và bổ trợ cho nhau nhằm tạo nên một tổng thể hài hoà và cân xứng. Chúng ta thấy tạo hình rồng vừa mang tính trang trí vừa mang tính công năng trở thành quai móc trên các chiếc chuông thời Nguyễn,  tạo hình kiểu bện thừng nhưng đồng thời vừa là những chiếc quai trên vạc đồng thời chúa Nguyễn, tạo hình mặt trời nhưng cũng là điểm gõ trên những chiếc khánh đồng … Nhà nghiên cứu Phan Thanh Bình trong bài viết “Tính tạo hình trong kiến trúc cung đình Huế, những giá trị hài hoà và thực dụng” cũng đã cho rằng sự hài hoà trong các giá trị tạo hình và thực dụng có sự liên quan mật thiết với nhau, đó chính là sự dung hoà giữa tính công năng và tính thẩm mỹ. Trên đồ đồng của các di vật thời kỳ này một số motif trang trí của phương Tây cũng đã xuất hiện như hoa văn trên những khẩu súng thần công, vạc đồng thời chúa Nguyễn. Kỹ thuật đúc đồng cũng phát triển hơn nhờ việc tiếp thu các kỹ thuật từ phương Tây tại phường Đúc, Huế. Phường Đúc ở Huế đã ra đời khi Chúa Nguyễn Phước Lan đặt chính dinh ở Kim Long vào năm 1636, phần lớn dân cư đến từ đất Kinh Bắc (Bắc Ninh). Vị tổ nghề đúc đồng ở Huế tôn tờ ông Nguyễn Văn Lương (là một trong những người theo chân chúa Nguyễn vào Nam). Lịch sử hình thành nên làng đúc đồng Phường Đúc gắn liền với sự hình thành của Chú Tượng Ty. Đây là một công tượng đúc đồng thời chúa Nguyễn nằm ở phía Tây Nam, sau này gọi là phường Đúc. Mặc dù đây là thời kỳ chiến tranh kéo dài nhưng tình hình văn hoá và nghệ thuật  thời Nguyễn vẫn khá phát triển. Điều này được thể hiện thông qua các công trình văn hoá, các di vật còn lại hiện nay như 11 chiếc vạc đồng, chiếc Đại Hồng Chung, Khánh đồng chùa Thiên Mụ, súng thần công (loại trung)…  Đây là những công trình tiêu biểu và đặc sắc phản ánh được tình hình văn hoá của thời kỳ đầu Nguyễn. Điều này chứng tỏ các chúa Nguyễn đã nhận thức rất rõ về tầm quan trọng của văn hoá nghệ thuật. Trong phong cách tạo hình nghệ thuật của thời kỳ này bên cạnh các yếu tố Chăm bản địa như lối phân chia ô hộc, hoa văn phát triển theo hình chuỗi hoa dây, ngoài ra còn ảnh hưởng các yếu tố phương tây như các đăng ten , cu ron trang trí. Chính những yếu tố này đã đặt nền tảng cho sự thành công của các di vật đồ đồng thời vua Nguyễn sau này như: Cửu đỉnh, Cửu vị thần công…

3. Đôi điều kết luận

Ở mỗi nền văn hoá và bối cảnh lịch sử xã hội khác nhau thì sản sinh ra các loại hình nghệ thuật khác nhau tuỳ vào đặc điểm riêng của các quốc gia, vùng miền, cộng đồng dân cư… thì cũng có sự tương đồng và khác biệt nhất định. Đối với việc nhận định các di vật cần chú trọng yếu tố bối cảnh văn hoá, lịch sử của di vật đó, ngoài ra cần phải hiểu được bối cảnh văn hoá, vùng miền và không gian văn hoá của di vật đó. Đặc điểm tạo hình đồ đồng thời Nguyễn được chia thành hai giai đoạn chính đó là thời kỳ các chúa Nguyễn và thời kỳ các vua Nguyễn. Sự phát triển của nghệ thuật đồ đồng thời Nguyễn cũng có yếu tố kế thừa, tiếp biến và phát triển theo thời gian. Ở thời các chúa Nguyễn (tiền Nguyễn): Đặc điểm tạo hình mang đậm phong cách của nhà Hậu Lê, đặc biệt là trong các mô típ trang trí, bố cục tạo hình cũng đơn giản hơn, không gian biểu hình thoáng đạt, thủ pháp tạo hình khá bay bổng và phóng khoáng ít chi tiết. Một số nét đặc trưng đó là mô típ song phụng được trang trí đăng đối qua biểu tượng mặt trời ở các lăng mộ thời các chúa Nguyễn, mô típ mây lưỡi mác kéo dài theo chiều ngang cũng là một trong những đặc điểm dễ nhận thấy, có thể lấy ví dụ mây mũi mác này trên khánh đồng chùa Thiên Mụ, chuông chùa làng An Lưu. Trong khi ở thời các vua Nguyễn: đặc điểm tạo hình của thời kỳ này được ràng buộc bởi các điển tích, điển chế. Sự phát triển của đồ đồng thời vua Nguyễn là một sự kế thừa trên nền tảng bệ đỡ của thời các chúa Nguyễn

Trong mối tương quan chung về lĩnh vực văn hoá, lịch sử và xã hội thời kỳ tiền Nguyễn đã có nhiều đóng góp trong công cuộc định hình và phát triển xứ Đàng Trong, nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của đất nước với các quốc gia khác trong khu vực. Đây cũng là thời kỳ phát triển của các loại hình nghệ thuật, trong đó nghệ thuật trang trí trên đồ đồng đã ghi dấu rất rõ nét thông qua những di vật đồ đồng hiện còn lưu giữ tại các khu di tích Cố đô Huế. Nghệ thuật đồ đồng thời Nguyễn nằm trong sự giao lưu và tiếp biến của nhiều luồng văn hoá khác nhau, vì vậy việc làm sáng tỏ giá trị nghệ thuật của thời kỳ này sẽ góp phần trong việc đưa ra các nhận định mới về văn hoá mỹ thuật Nguyễn nói riêng và văn hoá Việt Nam nói chung.

P.L.C

 

Tài liệu tham khảo:

Đỗ Bang (1993), Phố cảng Thanh Hà và dấu tích phố cổ, Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1992”, Nxb Viện Khảo cổ học  - Trung tâm khoa học và xã hội nhân văn quốc gia.

Phan Thanh Bình (1996), Tính tạo hình trong kiến trúc cung đình Huế, những giá trị hài hoà và thực dụng, Tạp chí Kiến trúc Việt Nam, số 2/96.

Cristophoro Borri (2014), Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, tr.118.

Nguyễn Duy Chính (tuyển dịch) (2016), Đàng Trong thời chúa Nguyễn, Nxb Hội nhà Văn, Hà Nội.

Phan Khoang (1969), Việt sử: Xứ Đàng Trong (1558 – 1777), Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.

Vĩnh Phối (2000), Nghệ thuật trang trí Huế, Đề tài NCKH cấp Bộ mã số B98.11.11, trường Đại học Nghệ thuật, Đại học Huế.

 

 

 

 

 

Các bài mới
Các bài đã đăng