Văn nghệ dân gian
Yếu tố tạo hình dân gian trong nghệ thuật trang trí ở Lăng Thiệu Trị - Huế
09:58 | 06/04/2022

NGUYỄN VŨ LÂN

Yếu tố tạo hình dân gian trong nghệ thuật trang trí ở Lăng Thiệu Trị - Huế
Ảnh: Internet

Trải qua hơn 200 năm lịch sử, các chúa Nguyễn (1558-1777) đã để lại cho dân tộc những di sản văn hóa vô cùng phong phú và các giá trị đặc biệt về nghệ thuật tạo hình. Đến triều Nguyễn (1802-1945), kinh đô Huế đã thực sự thừa hưởng được nhiều di sản văn hóa quan trọng. Đây là sự kết tinh công sức, trí tuệ và thành quả lao động sáng tạo của nhiều thế hệ tri thức, nghệ nhân của cả nước, từ đó tạo nên một diện mạo kiến trúc cung đình, lăng tẩm rất đặc trưng của triều Nguyễn trên đất Huế.

Để Huế có được diện mạo như ngày nay, công cuộc xây dựng kinh thành bắt đầu từ thời Gia Long, qua gần hết thời Minh Mạng (1802 - 1840) mới cơ bản hoàn thiện. Vua Gia Long đã cho xây dựng các công trình kiến trúc như Hoàng thành, Kinh thành, Đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc, Kỳ Đài, Văn Miếu… Sau khi vua Gia Long mất, vua Minh Mạng lên nối ngôi, đã tiếp tục xây dựng các công trình do vua cha để lại, đồng thời cho xây dựng một số công trình khác như: Ngọ Môn, các vọng lâu trên cổng thành, Hổ Quyền, Võ Miếu, Hiếu lăng (1840)…

Đến thời Thiệu Trị (1841-1847) và thời Tự Đức (1848-1883) tiếp tục cho xây dựng bổ sung các công trình như điện Long An, Xương lăng, Khiêm lăng, một số công trình khác ngoài kinh thành như chùa Diệu Đế, tháp Phước Duyên chùa Linh Mụ… Toàn bộ kiến trúc mà các vị vua đầu triều Nguyễn đã cho xây dựng đều mang đậm bản sắc văn hóa phương Đông truyền thống.

Đến các công trình dưới thời vua Đồng Khánh, Khải Định và những giai đoạn trở về sau, do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đã sử dụng vật liệu mới, các hoa văn trang trí mạng đậm phong cách châu Âu như lăng Khải Định, cung An Định, lầu Kiến Trung. Chính điều đó đã làm cho nghệ thuật kiến trúc cung đình thời Nguyễn trở nên phong phú, đa dạng, khác biệt và đặc sắc. Trong bài “ Trang trí và hội họa thời Nguyễn trên đất Huế”, tác giả Trần Đại Vinh đã nhận định rằng: “… kiến trúc thời Nguyễn, kiến trúc cung đình (cung điện, đền đài) hay kiến trúc dân sinh (ngôi đình, miếu thờ) người thưởng ngoạn sẽ ngạc nhiên bởi hệ thống trang trí phong phú, nhiều dạng vẻ” [3, tr.121]

Đáng chú ý là việc tạo hình trang trí ở cung đình, lăng tẩm, cho dù sử dụng các vật liệu, chất liệu, hoa văn, họa tiết, bố cục tạo hình nào đi chăng nữa cũng không làm mất đi những quy định nghiêm ngặt và tất cả đều thực hiện theo quy chuẩn mà triều đình ban hành.

Nhìn một cách bao quát chúng ta thấy nghệ thuật trang trí có mặt hầu hết ở không gian kiến trúc với các đề tài, mô típ trang trí kiến trúc mang âm sắc cung đình thời Nguyễn là rất phong phú và đa dạng. Các đề tài trang trí phải phù hợp, tương ứng với mỗi công trình kiến trúc sử dụng cho nhà vua hay các phi tần, quan lại và các công trình phụ khác trong cung đình, lăng tẩm… Đề tài trang trí chủ yếu mang tính chất biểu trưng, nhằm thể hiện sự cao sang quyền quý của chốn cung đình và được kết hợp thành từng nhóm một như: tứ linh (long, lân, quy, phụng); tứ thời (mai, lan, cúc, trúc ứng với 4 mùa xuân, hạ, thu, đông); bát bửu (8 bật quý như; gậy như ý, đàn, bầu thái cực, cuốn thư, quạt, sáo, pho sách, phất trần và kiếm) bố cục “nhất thi, nhất họa” (một ô chữ, một ô hình), ngoài ra còn có các hình tượng con vật được cách điệu… Đi sâu vào các mảng trang trí, người ta không chỉ thấy những kiểu thức ấy với những giá trị nghệ thuật và đặc điểm tạo hình, ý nghĩa biểu hiện tâm linh đặc sắc mà còn nhận ra các đề tài dân gian cũng được đưa vào trang trí trên các công trình kiến trúc. Đề tài dân gian có thể xem là yếu tố khá đặc biệt trong nghệ thuật trang trí thời Nguyễn. Các nghệ nhân đã đưa các hình tượng đời thường trong cuộc sống vào trang trí trên các công trình cung đình, đó là một trong những điều rất đặt biệt dù trong điển chế quy định rất nghiêm ngặt. Tuy nhiên, dù là yếu tố dân gian nhưng hệ thống các công trình được trang trí cũng phải theo một nguyên tắc nhất định, tất cả các yếu tố tạo hình ấy đều chứa đựng những ẩn ý tại mỗi vị trí nhất định trong từng công trình và thể hiện ý nghĩa như: sung túc, trường tồn, no ấm, hạnh phúc và cả ý nghĩa biểu hiện tâm linh.

Về vấn đề này, tác giả Trần Đức Anh Sơn trong “Huế - Triều Nguyễn một cái nhìn” đã nhận định rằng: “… về tính dân gian trong trang trí cung đình thời Nguyễn mà lịch sử đã để lại trên những di tích, những cổ vật còn bảo lưu ở Huế. Những dẫn chứng này sẽ góp phần chứng minh rằng trang trí Nguyễn không dừng lại trong khuôn mẫu nghiêm ngặt mà giai cấp phong kiến định chế…Nói cách khác, họ đã ‘dân gian hóa tác phẩm cung đình” và đã tạo hiệu quả tốt, được giai cấp phong kiến chấp nhận” [2, tr.417].

Tính dân gian trong trang trí thời Nguyễn nói chung và lăng Thiệu Trị nói riêng hết sức phong phú và đa dạng. Điều đó cho thấy, các nghệ nhân đã khéo léo truyền vào tác phẩm những phẩm chất dân gian, đời thường qua mỗi đề tài trang trí, hình tượng, họa tiết… cho đến xử lý các chất liệu đã tạo nên hiệu quả tạo hình cao, mang tính đặc trưng triều đại trên các công trình kiến trúc thời Nguyễn. Các mô típ trang trí, đề tài, hình tượng chữ triện, chất liệu có những nét khác biệt và những cái riêng so với các thời kỳ trước. Nhiều đề tài dân gian được đưa vào trang trí ở lăng khá nhiều như: chim, nai, hươu, thỏ, dơi, điệp, đề tài được mở rộng theo từng bộ như tứ thời (4 mùa), bát bửu... các đề tài thực vật như cây liễu, cây mai, cây tùng, cây trúc, hoa sen, hoa lan, hoa đào… kết hợp với nhiều loại chất liệu mới, dân dã và rất đời thường như sành sứ, gốm đất nung ở Long Thọ, chất liệu đồng ở Phường Đúc, pháp lam, đá, gỗ, nề vữa, nề đắp nổi, nề họa, nề đắp nổi kết hợp với khảm sành sứ... Tất cả đều từng xuất phát từ đời sống dân gian và nay góp mặt hầu hết trong nghệ thuật trang trí ở lăng.

Tại lăng Thiệu Trị hình tượng bát bửu xuất hiện khá dày đặc, và xét ở góc độ dân gian thì đây là một trong những đề tài hội đủ các yếu tố đối với đời sống thường nhật của người dân qua các chủ đề như:

+ Chủ đề âm nhạc: đôi sáo, đàn tì bà, đàn tranh, tù và, phách nhịp.

+ Chủ đề nông nghiệp, ngư nghiệp: ngư cổ (trống cá), đào, na, mận, phật thủ, lựu, bầu hồ lô, hoa dây, sen.

+ Chủ đề khoa cử: pho sách, bút, cuốn thư, nghiên mài mực.

+ Đề tài tâm linh như: nút huyền bí, vòng viên mãn, gậy như ý, kiếm, lá ngãi, phất trần, sanh tiền.

Ngoài ra còn có một số đề tài dân gian khác cũng xuất hiện tại công trình này như: quạt, bàn cờ, gương soi… Điều khác biệt ở nhà bia so với các công trình khác đó là, hệ thống trang trí bát bửu mang nét thô mộc của chất gỗ, với một phong cách bình dị, dân gian và gần gũi với thực tế đời sống con người. Với những bức chạm gỗ có vẻ thô mộc không sơn son thếp vàng, không phủ bóng, có thể coi là sự phá cách về chất liệu vốn mang màu sắc cung đình với sơn son thếp vàng đã tạo nên một tiền đề tốt cho việc dân gian hóa trong sử dụng các chất liệu quý mà chúng ta thường thấy trên các công trình kiến trúc. Phải chăng đây là một ranh giới đã được vượt qua trong nghệ thuật triều Nguyễn thời Thiệu Trị.

 Đề tài tứ thời cũng được trang trí trên một số công trình ở lăng, tuy không nhiều như các đề tài khác, nhưng đây cũng là một đề tài mang đậm yếu tố dân gian khá đặc sắc qua các chủ đề như: mai điểu, tùng lộc, lan điệp, cúc điệp. Ngoài ra, còn có một số mô típ trang trí khá lạ mắt đó là: đôi ngựa kết hợp với hoa cúc, cây liễu với chất liệu chạm nổi, sơn son thếp vàng được trang trí ở nội thất điện Biểu Đức, con thỏ kết hợp với cây lan chất liệu nề họa, trên gờ mái hai bên Đông, Tây phối điện.

Hình tượng rồng ở lăng Thiệu Trị có thể xem là linh vật quan trọng và được cụ thể hóa bằng ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình do chính sự tưởng tượng và các bàn tay nghệ nhân dân gian tạo ra hình tượng rồng như ngày nay. Mặc dù có rất nhiều hình tượng rồng ở lăng Thiệu Trị được các nghệ nhân truyền tải, nhưng dù hình tượng đó được tả thực hay cách điệu, hung dữ hay uy nghiêm, thanh nhã hay mập mạp, uốn lượn nhiều khúc hay ít khúc, thì con rồng ở lăng Thiệu Trị, qua bàn tay nghệ nhân đã mang một dáng vẻ khác hẳn so với các thời kỳ trước. Hình tượng rồng với nét mặt hiền lành, thân hình mềm mại, mập tròn hơn, qua đó đã tạo nên một sự khác biệt trong biểu hiện nghệ thuật trang trí thời Nguyễn.

Hình tượng con dơi được đưa vào trang trí khá dày đặc trên các công trình kiến trúc ở lăng Thiệu Trị, đây là con vật có thật trong đời sống dân gian đã đi vào bộ đề tài bát linh. Con dơi là một trong linh vật được sử dụng khá nhiều. Hầu hết hình tượng con dơi được trang trí ở các góc, ngách, đầu hồi, bình phong, hai bên mái… nhằm tạo sự mềm mại trên kiến trúc. Với kỹ thuật điêu luyện của các nghệ nhân, hình tượng con dơi được cách điệu khá độc đáo và mang nhiều ý nghĩa tâm linh qua các biểu tượng như: dơi ngậm đồng tiền, dơi ngậm chữ thọ, dơi ngậm dải lụa, dơi kết hợp vân mây hay hoa lá… Toàn bộ được hình tượng hóa mang ý nghĩa ấm no, hạnh phúc, giàu sang, phú quý, trở thành một trong tám con vật thiêng của nghệ thuật trang trí. Hình tượng dơi được cách điệu phù hợp với mỗi vị trí khác nhau trong trang trí kiến trúc và đóng vai trò hết sức quan trọng, tạo ra một không gian nhiều lớp, có chiều sâu của hình khối và một không gian rộng lớn, sinh động và giàu sức sống. Qua đó cho thấy, dù là một con vật đời thường nhưng được sinh ra từ tư duy liên tưởng hữu thức của con người, một sản phẩm tín ngưỡng đã được hình thành dần theo dòng lịch sử .

Rùa cũng là đề tài đáng chú ý, đây là con vật có thật và được đặt ở một vị trí quan trọng không thể thiếu trong nghệ thuật trang trí cung đình. Hình tượng tứ linh, với bốn con vật linh, nhưng đến ba con là không có thật. Vậy vì sao một con vật có thật lại được dân gian gắn nó vào bộ tứ linh cũng là một câu hỏi được đặt ra mà các nhà nghiên cứu chưa có lời giải thích thỏa đáng. Trong dân gian còn có câu vè “gặp rắn thì đi, gặp rùa thì về” như hàm ý muốn nhắc nhở rằng khi đi giữa đường gặp phải rùa là một điềm xấu, không nên tiếp tục đi mà nên quay đầu về.

Vấn đề này, tác giả L.Cadiere đã nhận định rằng: “… người ta tin rằng con rùa, luôn luôn chỉ có con cái, đã giao phối với một loài rắn. Vì nguyên nhân đó, con rùa được xem như là biểu tượng của sự bất chính. Vẽ hình con rùa trên cửa nhà một người nào đó, chính là muốn nói cho người đó họ có một hạnh kiểm xấu, tồi [1, tr.274].

Tuy nhiên, ở một góc nhìn khác con rùa là biểu tượng cho sự trường tồn, vì theo truyền thuyết nó sống đến hơn nghìn năm, mai rùa trên tròn dưới phẳng dẹp tượng trưng cho trời và đất, trên mai có các hình lục giác, vì vậy hình này được dân gian sử dụng khi trang trí móng nhà, vì nó mang ý nghĩa tượng trưng cho sự bền vững, chắc chắn, ngoài ra rùa còn là biểu tượng về ý chí học hành, thi cử đỗ đạt…

Trong quan niệm dân gian cho rằng rùa vừa có điểm xấu, vừa mang điềm tốt, vì vậy trong nghệ thuật trang trí thời Nguyễn nói chung và lăng Thiệu Trị nói riêng luôn gắn ghép nó với một biểu tượng hay một hình tượng khác, rất ít khi thấy con rùa được trang trí đơn nguyên trong các công trình kiến trúc. Các nghệ nhân luôn sử dụng rùa kết hợp với một biểu tượng khác như: rùa đội bia, rùa đội pho sách, chim hạc đứng trên lưng rùa… Tất cả đều mang ý nghĩa thẩm mỹ tâm linh, vì vậy nó đã được gắn trang trí trên các công trình kiến trúc tiêu biểu. Ở lăng Thiệu Trị, các nghệ nhân đã sử dụng gò đồi hình mai rùa để xây nên công trình lầu Đức Hinh. Tuy nhiên, do chiến tranh tàn phá nên công trình này chỉ còn lại phần móng với một số kiểu thức trang trí còn sót lại.

So với những con vật linh khác như rồng, phụng thì con nghê là một con vật được nhắc đến cũng khá nhiều, đồng thời nó luôn được đặt ở những vị trí khá quan trọng như hình tượng nghê đồng oai vệ đứng chầu hai bên nhà bia lăng Thiệu Trị. Con nghê là linh vật từ dân gian và được sử dụng một cách hết sức phổ biến trong văn hóa dân gian cung đình. Đây là linh vật hư cấu nên nó không có hình dáng cố định mà tùy vào thời kỳ lịch sử sẽ có những tạo hình con nghê khác nhau. Tùy vào vị trí chức năng sử dụng mà các nghệ nhân tạo hình các biểu tượng nghê cho phù hợp. Chẳng hạn như nghê có sừng hay không có sừng, nghê có bờm hay không có bờm, nghê có vảy hay có lông xoắn, nghê có móng vuốt hay nghê không có móng… Qua nghiên cứu, đối chiếu cho thấy, đôi nghê bằng đá sa thạch chầu trước cổng bi đình lăng Minh Mạng so với đôi nghê bằng đồng chầu hai bên nhà bia lăng Thiệu Trị là một điển hình mà qua đó chúng ta thấy được sự tương đồng và khác biệt của chúng một cách hiện hữu nhất.

Yếu tố dân gian trong nghệ thuật thời Nguyễn nói chung và trang trí ở lăng Thiệu Trị nói riêng, ngoài tứ linh cho đến các biểu tượng trang trí khác như hoa lá, quả, động vật… đều mang tính đời thường, dân dã được dân gian hóa, thể hiện ở họa tiết và thủ pháp trang trí trong các công trình của lăng. Ngoài sự kết hợp giữa các mô típ trang trí với chất liệu vốn có ở dân gian, các nghệ nhân còn sử dụng màu sắc để tô điểm sao cho phù hợp ứng với từng đề tài trang trí, chính vì vậy đã tạo nên sự lộng lẫy, hoành tráng trên các công trình kiến trúc ở lăng Thiệu Trị. Đó còn là sự thể hiện bàn tay tài hoa của các nghệ nhân khi tìm cách đưa những hình tượng dân gian vào trong nghệ thuật trang trí một cách trật tự và liên kết. Các biểu tượng không những mang ý nghĩa sâu sắc tạo nên các giá trị thẩm mỹ tạo hình mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa triết lý nhân văn, tâm linh trên mỗi mô típ trang trí kiến trúc của lăng. Từ phong cách tạo hình, bố cục, không gian họa tiết đều được thể hiện một cách hoàn hảo, có hồn và gần gũi với đời sống, tạo được ấn tượng nghệ thuật có giá trị thẩm mỹ và độc đáo, phong phú, khác lạ tăng thêm tính chất đặc trưng vốn có trang trí ở lăng.

Tuy nhiên, khi đưa yếu tố dân gian vào trang trí, các nghệ nhân vẫn không vượt quá xa những thiết chế của mỹ thuật thời Nguyễn, khi mà việc sử dụng nhiều chất liệu dân gian để trang trí trên các công trình trở nên phổ biến, thay thế dần những chất liệu “quý tộc” như pháp lam, sơn son thếp vàng, vàng, bạc, đồng… Điều này góp phần minh chứng rằng, trang trí thời Nguyễn không dừng lại trong khuôn mẫu quy định nghiêm ngặt của triều đại phong kiến này, đâu đó đã chấp nhận sự tồn tại của chất liệu dân gian trong trang trí mà lịch sử đã để lại trên các công trình kiến trúc vô cùng phong phú và đặc sắc, thể hiện qua tính dân gian trong họa tiết và thủ pháp trang trí, trong chất liệu, trong đề tài... Như vậy, nghệ thuật trang trí dân gian ở lăng Thiệu Trị đã phần nào tạo được ấn tượng khá đặc sắc, làm phong phú thêm tính chất đặc trưng của nghệ thuật trang trí kiến trúc thời Nguyễn.

N.V.L

 

Tài liệu tham khảo:

Léopold Cadière (1998), “Mỹ thuật Huế”, Hà Xuân Liêm - Phan Xuân Sanh dịch, Những người bạn Cố đô Huế, tập VI, 1919, Nxb Thuận Hoá, Huế. 

Trần Đức Anh Sơn (2008), Huế - Triều Nguyễn một cái nhìn, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

Viện Khoa học xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh, Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh (1995), Những vấn đề văn hóa - xã hội thời Nguyễn, Nxb Xí nghiệp in số 3, tr.121.

 

 

 

 

 

 

Các bài mới
Các bài đã đăng