VÕ QUÊ
1. Vài nét về Ca Huế
Dân tộc Việt Nam do hoàn cảnh địa lý và các điều kiện khách quan khác đã có một nền văn hóa đa dạng, trong đó bộ môn Ca Huế đã tiếp thu, kế thừa và ảnh hưởng nhiều sắc thái, tinh hoa của nhiều vùng đất khác nhau. Điệu Bắc vui tươi như 10 bản liên hoàn (10 bản Tàu), Cổ bản, Lưu thủy, Hành vân... Điệu Nam ai oán, trữ tình như Nam ai, Nam bình... đã nói lên sự tổng hợp mà ca nhạc Huế tiếp truyền được trong quá trình hình thành của nó. Chính những yếu tố dị biệt, tương phản Bắc Nam, buồn vui đã dung hòa trong âm nhạc Huế mà nghệ thuật Ca Huế có một sắc thái riêng biệt, một tính chất đặc thù rất đáng trân trọng, gìn giữ.
Tại miền núi Ngự sông Hương, trong khoảng 200 năm trở lại đây, chẳng những tầng lớp quý tộc mà đến những người bình thường, dân dã... cũng đã hết lòng nghiên cứu nghệ thuật Ca Huế, tập luyện đàn ca đến mức tuyệt kỹ, điêu luyện. Một số đông văn nhân thi sĩ đã sáng tác lời Ca Huế, trong đó có các nhà thơ không phải sinh trưởng ở đất thần kinh như Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Á Nam Trần Tuấn Khải, Vũ Ngàn Chi...
Bài viết Nguồn mỹ cảm của dân tộc Việt Nam gặp gỡ Chiêm Thành của Bửu Cầm đăng trong tập Nguồn Mỹ Cảm của Hội Người Yêu Mỹ Thuật Huế, các tập sách viết về ca nhạc Huế của Ưng Ân, Bán buồn mùa vui của Ưng Bình Thúc Giạ (1954), Câu hò mái đẩy của Thảo Am Nguyễn Khoa Vy (1957), Cố đô Huế của Vu Hương, Thanh Tùng, Kiều Khê (1971), Ca Huế và ca kịch Huế của Văn Lang (1993) và các bài viết khác của Hoàng Yến đăng trên tạp chí Nam Phong; những cuốn sách dạy đàn của Nguyễn Hữu Ba đã cho thấy nghệ thuật Ca Huế đã đi vào đời sống Huế rất thiết thân và trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong sinh hoạt thường ngày về văn hóa.
2. Phân loại hệ thống ca Huế và những đặc điểm chính
2.1. Từ trước đến nay, mọi người đều công nhận nghệ thuật Ca Huế là loại hình âm nhạc truyền thống được phát triển rất lâu đời. Nhưng để xác định Ca Huế được phát sinh từ thời gian nào thì hiện nay chưa có ai biết một cách đầy đủ.Sỡ dĩ có tình trạng này vì nguồn tư liệu về ca nhạc Huế trong giai đoạn đầu hình thành quá thiếu thốn, mất mát. Một phần do hoàn cảnh chiến tranh qua nhiều năm tháng, phần lớn tài liệu, sách sử, văn bản, thư mục... đã bị thiêu hủy hoặc bị các thế lực xâm lăng cướp phá. Hệ thống tài liệu về âm nhạc chắc chắn lại càng ít ỏi, hiếm hoi.
Chúng ta có thể tham khảo một số ý kiến sau đây để có thể hiểu khái quát về sự hình thành Ca Huế:
Tác giả Ưng Bình Thúc Giạ (1877-1961), đã viết: “Gọi là Ca Huế, vì thanh âm người Huế hợp với điệu ca này, mà xứ Huế như người Quảng Trị với Quảng Bình cũng ca được, còn từ Linh Giang dĩ Bắc, Hải Vân quan dĩ Nam đều có người ca, mà ca giỏi thế nào cũng có nơi trạy bẹ, ấy là câu chuyện ai cũng biết rồi. Điệu ca khởi điểm từ thời nào, thời khởi điểm từ thời Hiếu Minh (chúa Nguyễn, về hệ bảy, thế kỷ 17).
Đức Hiếu Minh, hiệu Thiên Túng đạo nhơn, là ông chúa thượng văn, năng đề vịnh. Con ngài là ông Tứ (tức Đán), cháu là ông Dực, đều có tiếng giỏi từ chương. Chúa Nguyễn trấn Thuận Hóa, Thuận Hóa tức là Huế ngày nay. Lạ chi gặp đời ông Chúa thượng văn, thời triều đình thế nào cũng có ban nhạc phủ, thời tao nhân, mặc khách ở tri hạ tất phải hưởng ứng mà thành ra ca khúc, ca chương.
Thuận Hóa vốn xưa là đất Chiêm Thành, châu Ô, châu Lý, có điệu ca rất ai oán, trong sử đã nói ca Huế có khúc ca Nam, thời Nam bình, Nam ai quả là theo điệu Chiêm Thành mà làm ra, không nghi ngờ gì nữa. Còn ca khách lại duồng theo điệu Trung Quốc, là lẽ tự nhiên, huống chi ca khách có 10 bản gọi là bản Tàu, thì đủ biết.
Ca Huế bản nào, vẻ nhịp nào, đã sẵn có khuôn khổ (xàng, xê, xự), hễ ưa đến điệu nghệ, mà có tình tứ thì làm được, miễn sao văn cho thuận, câu cho xuôi, ý nghĩa cho rõ ràng, mạch lạc, cho thông suốt; ấy là bản ca để ca, mà dễ lưu truyền vào nhạc phủ ...”[1].
Giáo sư, Tiến sĩ Trần Văn Khê cũng bàn về thời điểm hình thành ca Huế: "Không có sử liệu nào nói Ca Huế có từ bao giờ, chỉ biết rằng Ca Huế không phải là loại nhạc dân gian, vì nó chỉ được giới quyền quí hoặc trong cung đình sử dụng. Vậy có thể nói rằng đây là loại quan nhạc chứ không phải dân nhạc"[2].
2.2. Ca Huế là loại hình đàn hát ở thính phòng mang phong cách tự sự, ngâm ngợi, tri âm, tri kỷ với số lượng năm bảy người đàn ca với nhau, các làn điệu, bài bản đạt trình độ hoàn chính cả nhạc lẫn lời, nội dung giàu chất thơ, trữ tình. Một số bài bản lớn của Ca Huế ở hai hệ thống là :
+ Hệ thống những bài bản Bắc (còn gọi là điệu khách) mang âm hưởng tươi vui, thanh thoát, nhịp điệu nhanh. Với đặc điểm ấy, giới nghệ sĩ ca Huế còn gọi là các bài bản Xuân. Tiêu biểu có các làn điệu:
- Cổ bản (bài xưa) gồm 64 nhịp.
- Lộng điệp (bướm vờn trước gió): gồm 16 nhịp, được đưa vào điệu Cổ bản để sáng tác, với tính chất hưng phấn, rộn ràng.
- Phú lục: có nét nhạc sang trọng với 206 nhịp (phú lục chậm), 27 nhịp (phú lục nhanh).
- Mười bản Tàu (Phẩm tuyết, Nguyên tiêu, Hồ quảng, Liên hoàn, Bình bán, Tây mai, Kim tiền, Xuân phong, Long hổ, Tẩu mã). Trong hệ thống điệu Bắc, mười bản Tàu còn gọi là 10 bản Ngự chỉ trình diễn khi lễ lạt, tuy nhiên nhiều nghệ sĩ Ca Huế đã lấy mỗi đoạn trong mười bản Tàu để soạn lời ca làm phong phú thêm các làn điệu Ca Huế.
+ Hệ thống những làn điệu Nam (còn gọi là điệu Ai):
Điệu Nam (ai) mang âm hưởng buồn, chất nhạc dàn trải, sâu lắng, trữ tình, gồm có:
- Nam ai: Điệu ca chia làm 5 lớp, tính chất buồn, ai oán.
- Nam bình: Tiết tấu, âm điệu đều đều, buồn man mác, nhẹ nhàng.
- Quả phụ: Điệu ca thể hiện nổi sầu đời, cô đơn của người quả phụ.
- Tương tư: Gợi lên sự nhớ thương da diết của hồn người trong cuộc tình yêu.
- Nam xuân: Mùa xuân ở phương Nam, giai điệu lửng lơ, thương cảm một cách thuần khiết.
+ Ngoài hai hệ thống Bắc, Nam trên, một số làn điệu mang yếu tố lưỡng tính; vừa có nét nhạc vui, vừa có nét nhạc buồn. Tiêu biểu có các điệu:
- Long ngâm: Chất nhạc trang trọng, thương cảm.
- Tứ đại cảnh: Chất nhạc sang trọng, đượm buồn, mang tính tự sự.
- Các bài bản “Hơi dựng”: Hơi dựng có nghĩa là dựng lời ca lên khác với hơi ca bình thường. Chất nhạc vì thế có nét riêng, làm phong phú của Ca Huế.Tiêu biểu có làn điệu Cổ bản dựng.
2.3. Những đặc điểm của ca nhạc Huế
Ca nhạc cổ truyền Huế có những đặc điểm, sắc thái riêng. Vừa hài hòa giữa điệu Bắc, điệu Nam, vừa có tính khoa học trong cấu trúc các bài bản và các thể loại âm nhạc. Theo nhận xét của nghệ sĩ Văn Lang, âm nhạc Huế có mấy đặc điểm như: tính liên tục, tính chuyển tiếp, tính biến âm, tính biến điệu, tính tự tình, tính cô đọng súc tích từ nội dung hình thức :
- Tính liên tục: Có thể đàn (tỳ bà, nguyệt cầm, nhị, tỳ bà, độc huyền cầm, đàn tranh...) và hát nhiều lần một bài ca mà người thưởng ngoạn không có cảm giác bị gián đoạn. Điều ấy có thể thấy qua các bài long ngâm, phú lục.
- Tính chuyển tiếp: Chuyển giai điệu này sang giai điệu khác một cách nhuần nhuyễn, hài hòa. Tiêu biểu là 10 bài liên hoàn.
- Tính biến âm, biến điệu: Một bài ca khi đã được đổi điệu, đổi hơi thì âm điệu bài ca hoặc đoạn ca ấy nghe khác đi. Ví dụ bài cổ bản có thể đổi nhiều hơi khác nhau (hơi xuân, hơi dựng, hơi Quảng...). Do có sự đổi hình thức âm điệu thì tình cảm thể hiện cũng có sự biến đổi làm phong phú nội dung bài ca.
- Tính tự tình: Ca nhạc thính phòng Huế tính tự tình được thể hiện đậm nét tạo một nguồn đồng cảm giữa người nghe và người biểu diễn.
- Tính cô đọng, súc tích: Tính cô đọng được thể hiện trong từng câu nhạc, tiết tấu, câu ca... tính súc tích được thể hiện trong câu từ chủ đề của nội dung bài ca.
Với đặc điểm trên, ca sĩ và nhạc công có thể bộc lộ hết khả năng tài hoa đến mức tuyệt kỹ.
3. Trong những năm chiến tranh, bộ môn Ca Huế không được phát triển sâu rộng trên đất Huế mà chỉ hạn chế trong một số sinh hoạt có tính chất gia đình, nhóm bạn lẻ tẻ. Các giọng ca, nhạc công thiếu các điều kiện để phát huy tài nghệ của mình.Sau ngày đất nước được thống nhất, quê hương sống trọn vẹn những ngày bình yên thực sự, cung bậc tri âm một thời vàng son đã hồi sinh trong lòng Huế.Ca Huế đã tìm lại chính mình giữa một trung tâm được thế giới công nhận là di sản văn hóa của loài người.
Đội ngũ ca sĩ, nhạc sĩ, nhạc công đã được phát triển trên nhiều mặt. Vừa đông về số lượng, vừa được nâng cao về chất.Lớp nghệ sĩ lão thành hòa âm cùng thế hệ trẻ. Người mộ điệu Ca Huế ngày càng tăng theo thời gian là người xứ Huế, là bạn tri âm trong nước, là khách du lịch từ mọi miền trên trái đất... Tất cả đã và đang tìm đến nhau cũng âm điệu Huế sâu lắng, trữ tình. Loại hình Ca Huế đã hòa nhịp trong đời sống văn hóa du lịch; đã làm phong phú thêm bản sắc Huế vốn đa dạng; mộng và thơ...
Mái chèo trăng, con thuyền mộng, ngàn sao khuya lấp lánh; nét mờ ảo sương sa cùng những vẻ đẹp thiên nhiên đang hội tụ cùng dòng sông Hương êm đềm là sự cộng hưởng thật tuyệt vời nâng tầm bay cho ca Huế.
Ngày nay Ca Huế không còn đóng khung trong những thính phòng của Huế; trong những khoang thuyền nhỏ trên sông Hương thơ mộng trữ tình mà đã đến với Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thụy Sĩ , Hồng Kông, Đài Loan, Pháp, Bỉ...
Nội dung những bài Ca Huế ngoài sự ngợi ca cảnh sắc thiên nhiên phong hoa tuyết nguyệt, tự sự về nhân tình thế thái, buồn vui của kiếp người, ngày nay còn có những nội dung ngợi ca ngày mới nói lên những khát vọng, ước mơ về một tình yêu lớn tràn trề hạnh phúc. Về một ngày mai chan chứa tình người, tình quê hương dân tộc. Ca Huế đang theo nhịp đời mới mà trưởng thành, giàu âm hưởng, giàu cung bậc để hòa âm vào vận hội chung muôn khúc xuân thì.
4. Bảo tồn và phát huy nghệ thuật Ca Huế
Từ những giá trị đích thực của loại hình âm nhạc cổ truyền Huế, các cơ quan hữu quan, những người có tâm huyết, các nhạc hữu, nghệ sĩ, diễn viên... của bộ môn ca Huế cần quan tâm đến những biện pháp có tính khả thi trong việc bảo tồn và phát huy; góp phần nâng cao nghệ thuật diễn xướng, nghệ thuật sáng tạo nội dung lời ca Huế.
4.1. Một trong những công việc đầu tiên của công tác bảo tồn là cần có chương trình giáo dục trong học đường thông qua nói chuyện có minh họa, thông qua các buổi biểu diễn nghệ thuật. Muốn cho các thế hệ mới có niềm đam mê nghệ thuật âm nhạc truyền thống thì trước hết phải giúp cho họ hiểu biết những điều căn bản, những đường nét chính thống của âm nhạc Huế. Năm 2019 Sở Văn hóa và Thể thao vừa phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thừa Thiên - Huế tổ chức ký kết chương trình đào tạo nhằm đưa di sản ca Huế vào trường học là một tín hiệu tốt trong việc gìn giữ và phát huy nghệ thuật Ca Huế.
Ngày nay ngoài việc giảng dạy tại các trường Đại Học nghệ thuật Huế, trường Văn hóa Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, các cơ quan hữu quan cần quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện cho các nghệ nhân tham gia giảng dạy theo lối truyền khẩu ở tại tư gia, chính đội ngũ này trong những năm qua đã có công không nhỏ trong việc đào tạo một số các em đam mê âm nhạc truyền thống Huế.
4.2. Công tác sưu tầm, chỉnh lý nội dung các lời ca xưa của nhiều tác giả lớp trước, của các tác giả khuyết danh cũng là một trong những trọng tâm nhằm bảo tồn và phát huy vốn cổ; Đồng thời cần có kế hoạch vận động giới văn nhân thi sĩ soạn lời ca mới phù hợp với cuộc sống đương đại; góp phần làm phong phú nội dung của ca Huế.
4.3. Khán giả cũng là một khâu quan trọng trong việc bảo tồn vốn cổ dân tộc. Việc tổ chức nhiều chương trình biểu diễn ca Huế nhiều nơi ở phố phường, làng xã, ở các trường học, các tổ chức tôn giáo... phải được xem như một công tác “đào tạo khán giả”. Thực tế trong các Festival Huế vừa qua, những sân khấu cộng đồng giới thiệu bộ môn ca nhạc truyền thống Huế đã thu hút tương đối đông đảo người xem thuộc nhiều độ tuổi khác nhau. Từ thực tiễn đó cho thấy nếu Ca Huế có nhiều sự tiếp cận công chúng thì số lượng công chúng sẽ đến với Ca Huế ngày một tăng.
4.4. Về lâu về dài Huế cần có một bảo tàng âm nhạc. Hiện nay tư liệu về ca Huế, các nhạc cụ của các danh cầm nhiều thế hệ đang nằm tản mác trong dân, có nguy cơ bị lãng quên, hư hỏng. Sự hình thành một bảo tàng âm nhạc sẽ góp phần gìn giữ các tài sản, tư liệu quí của các nghệ sĩ, nghệ nhân và thông qua bảo tàng âm nhạc sẽ giúp cho các thế hệ sau hiểu, yêu âm nhạc và có ý thức giữ gìn những giá trị nghệ thuật do tiền nhân để lại.
4.5. Ngày nay, ca nhạc truyền thống Huế đã thực sự gắn liền với cuộc sống hằng ngày; đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu trong lĩnh vực du lịch. Các cơ quan hữu quan cần chú ý nâng cao chất lượng, nội dung các chương trình biểu diễn phục vụ du khách trong và ngoài nước. Công tác quản lý cần được quan tâm nhằm gạn đục khơi trong, giúp bộ môn ca nhạc truyền thống Huế có được chỗ đứng trang trọng, dài lâu trong lòng người tri âm, tri kỷ.
V.Q
Tài liệu tham khảo:
Ưng Bình Thúc Giạ (1992), Thơ ca, NXB Thuận Hóa.
Vu Hương, Thanh Tùng, Kiều Khê (1971), Cố đô Huế.
Văn Lang (1993),Ca Huế và Ca Kịch Huế, NXB Thuận Hóa.
Thanh Tùng Nguyễn Gia Tuân (1996), Cố đô Huế (thơ ca), NXB Thuận Hóa.
[1] Ưng Bình Thúc Giạ (1942), Bán buồn mua vui, Khánh Quỳnh xuất bản.
[2] Trần Văn Khê (1961), tạp chí Bách Khoa số 102, 102.