Tác giả của các vở tuồng không chỉ là những người có học vấn, những nho sĩ tài danh, các quan lại, mà ngay cả các vua chúa, hoàng thân quốc thích cũng tham gia sáng tác. Sử sách triều Nguyễn đã từng ghi lại vụ án quanh vở tuồng Quần tiên hiến thọ do Nguyễn Bá Nghi, thuộc viên Nội các dưới thời Minh Mạng biên soạn. Vở tuồng này có sự tham gia trực tiếp của vua Minh Mạng. Trong vở tuồng này, có lời châm biếm các nhân vật thần bếp và thầy kiện. Nhân việc cầu tạnh không ứng, Tuần phủ Nam Ngãi là Vương Hữu Quang làm mật tấu để bắt lỗi vua, tờ tấu có đoạn viết: “Thần ngày gần đây đến hầu nghe thấy nhà vua nói đùa ở điện Văn Minh và diễn kịch mới ở nhà Duyệt thị, đấy một lời nói một việc làm ấy đủ làm lụy đến thánh đức (...) Ý thánh thượng đã hối rồi, mà khí rét còn đe dọa như thế, lòng trời giận chưa nguôi, chưa chắc bởi việc ấy. Xin đốt sách ấy đi để tạ trời đất thần minh”. Vua đọc xong, phê rằng: nói chuyện với bọn Trương Đăng Quế “Ngày vừa rồi ở điện Văn Minh, từng cười về thầy kiện dốt nát, thần bếp thiên tư. Và nói đến việc phường hát đời thịnh trị chế nhạo cả trời đất tiên sư, rất là nhảm bậy. Khi nào lại bắt chước mà biên thành sách truyện bao giờ”(1). Rồi ra chỉ dụ cách chức và tống Vương Hữu Quang vào ngục. Các quan trong triều gồm: Phan Thanh Giản, Nguyễn Công Trứ, Doãn Uẩn, Bùi Ngọc Quĩ tâu vua xin xử tội nhẹ cho Vương Hữu Quang đều bị vua bắt tội. Vua ra chỉ dụ rằng: “Vương Hữu Quang làm lễ cầu tạnh không được lại muốn đổ cho người trên. Lại thấy ngày ấy trẫm hơi se mình, dám nói bậy bạ cho là trẫm có tội với trời đất thần minh, sao điêu toa dối bậy quá thế! Vả lại, truyện Quần tiên hiến thọ là thuộc viên Nội các bọn Nguyễn Bá Nghị soạn ra, dẫu trong ấy trẫm có chỉ bảo một vài câu, nhưng là lời thần bếp, thầy kiện răn bảo đó thôi, có điều gì đùa cợt thần minh đâu, huống hồ làm động đến trời đất ư ? Trẫm há có thể nghe thiên về lời các ngươi mà trái lời đình nghị ư ?...” Sau đó, Vương Hữu Quang bị giáng làm Tư vụ Bộ Công. Phan Thanh Giản bị giáng một cấp đổi đi nơi khác; còn Nguyễn Công Trứ, Bùi Ngọc Quĩ, Doãn Uẩn đều bị giáng một cấp lưu, không cho lấy công khác khấu trừ.
Qua sự việc trên ta thấy rằng dưới thời phong kiến, không chỉ có ở tầng lớp nhân dân ngoài xã hội mà còn ở cả trong triều nội đều quan tâm đến nghệ thuật tuồng. Kịch bản tuồng, dù được sáng tác trong cung đình hay ở ngoài dân gian; tất cả đều lấy chủ đề "quân quốc" làm tư tưởng chủ đạo. Trung quân ái quốc là hai yếu tố luân lý được Nho giáo đề cao. Vì vậy việc phò vua giúp nước luôn được thể hiện ở những vai chính diện. Tuồng đề cao đạo đức luân lý của con người thông qua mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn...
Tự Đức là vị vua có mối quan tâm đặc biệt đến việc phát triển bộ môn nghệ thuật tuồng. Ngay khi xây dựng Khiêm Lăng, nơi an nghỉ vĩnh hằng của mình; ông đã cho xây dựng nhà hát Minh Khiêm đường ngay tại khuôn viên lăng với mục đích để diễn tuồng cho nhà vua và quan quân xem mỗi khi đến vãng cảnh lăng. Vua Tự Đức đã thành lập ban Hiệu thư do Thượng thư Đào Tấn chủ trì; một số hoàng thân quốc thích cùng với các văn quan nổi tiếng đã tham gia trong ban này. Ban Hiệu thư đã thực hiện việc sưu tầm các vở tuồng (được sáng tác bằng chữ Nôm) đang lưu hành ở các địa phương về triều để san định. Trong thời gian này, các thành viên của ban Hiệu thư cũng đã sáng tác nhiều vở tuồng nổi tiếng như các vở: Vạn bửu trình tường, Quần phương hiến thụy... trong đó có một số vở do vua Tự Đức đích thân “châu phê”.
Qua nghiên cứu một số vở tuồng bằng chữ Nôm còn lại ở trong nước và bản chụp (photocopy) ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm (bản gốc đang được lưu giữ tại Thư viện Hoàng gia Anh Quốc). Khi khảo sát phần chữ húy và niên đại ghi trên một số vở tuồng này, chúng tôi thấy rằng: Chữ Thì時(trùng với tên húy của vua Tự Đức) đều được thay bằng chữ Thìn (thần) 辰hoặc viết bớt nét. Tuy vậy, vẫn thấy một vài chỗ chữ Thì còn để nguyên không sửa chữa. Một số vở có ghi niên đại Tự Đức và tên người chép tuồng là Lê Quí (Lê Quí phụng tả). Như vậy, có thể xác định rằng đa số các vở tuồng ở thư viện Hoàng gia Anh, trong đó có vở Ngự Văn Quân đều được sưu tầm và sao chép lại dưới thời Tự Đức. Phần giáo đầu các vở tuồng này thường mang tính khuôn mẫu với nội dung mừng cảnh đẹp của đất nước như: Sơn phong thủy tú, phượng múa rồng bay, chúc thọ vua chúa, chúc cơ nghiệp nước nhà bền vững, dân an vật thịnh... Nội dung các chương hồi phần lớn được gọt bỏ bớt các lời hường, lời kẻ(2). Các ngôn từ về nhân xưng trong lời thoại hoặc khi xưng danh trong các lớp giáo đầu đều tỏ ra khiêm cung hơn. Khi kết thúc vở diễn, bao giờ cũng có những câu chúc tụng vua chúa, chúc nước nhà thịnh trị, dân khang vật phụ... Với mục tiêu dùng văn hóa nghệ thuật để chuyển tải tư tưởng Nho giáo phục vụ cho việc giáo hóa người dân nên hình ảnh vua Nghiêu, vua Thuấn đã được nêu ra như một tấm gương của sự mẫu mực về đạo đức của những vị đế vương hết lòng yêu nước thương dân. Thiên Nghiêu điển ở Kinh Thư từng chép:
曰若稽古帝堯,曰放勛。欽,明,文,思,安安。允恭克讓,光被四表,格於上下。克明俊德:以親九族,九族既睦;平章百姓,百姓昭明;協和萬邦,黎民於變時雍。
“Viết nhược, kê cổ Đế Nghiêu, viết phóng huân; khâm minh văn tư an an; doãn cung khắc nhượng. Quang bị tứ biểu, cách vu thượng hạ. Khắc minh tuấn đức; dĩ thân cửu tộc, cửu tộc ký mục; bình chương bách tính, bách tính chiêu minh; hiệp hòa vạn bang, lê dân ô biến thời ung”. [Nói về Đế Nghiêu xưa, là một người đại tiêu biểu. (Đế) là người khả kính, văn nhã, ý tứ, mềm mỏng. Thành thực, khiêm cung, biết nhường nhịn. (Tiếng tốt) tỏa ngời khắp bốn cõi, lòng thành cảm phục từ trên xuống dưới. Luôn tỏ rõ đức lớn: Thân với cửu tộc, cửu tộc lại hòa mục, trăm họ vui tươi, muôn dân đươc sáng tỏ, hòa hợp khắp vạn cõi lân bang, lê dân lam lũ trở nên béo tốt].(3) Vua Thuấn là người có phong thái tươi đẹp, cung kính, thông minh, hòa nhã, thành thực. Được vua Nghiêu yêu mến và truyền ngôi cho. Vua Thuấn noi theo vua Nghiêu, tiếp tục sửa sang nền chính trị, định lại lễ nhạc, chăm lo việc trị thủy, khuếch trương nông nghiệp... tạo cho trăm họ an cư lạc nghiệp, thiên hạ hòa vui, làm điều thiện, bỏ điều ác... Vua Đại Vũ kế thừa vua Thuấn, phát huy tài trị nước an dân. Nơi thôn dã không để sót bậc hiền tài, mở mang văn đức. Qui hoạch đất đai, phát triển nông nghiệp, ngành nghề, được muôn dân tin yêu. Sau này, vua Kiệt nhà Hạ bạo ngược. Vua nhà Thương là Thành Thang phát lời thệ đánh vua Kiệt. Vua Kiệt thua chạy ra Nam Sào. Vua Thang làm bài cáo với trời đất tỏ sự khiêm cung, sửa đạo trị dân, chọn hiền tài, khoan hòa độ lượng, ai ai cũng kính phục. Khi vua Thang mất, ông Thái Giáp kế vị. Bề tôi là Y Doãn làm chức Chủng tể viết bài Huấn khuyên vua mới noi gương Tiên vương, bổ nhậm người có đủ đức tài để chăm lo việc nước. Đế Nghiêu, Đế Thuấn, vua Vũ, vua Thang, vua Văn Vương (nhà Chu) thường được gọi là Nhị Đế, Tam Vương, là những đấng minh quân trị vì trong những giai đoạn cực thịnh của xã hội phong kiến Trung Hoa mà người đời sau hết lời ca ngợi.
Khi nghiên cứu về lịch sử tư tưởng phương Đông, ta thấy rằng, các triều đại phong kiến Trung Hoa cũng như ở các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa luôn coi trọng Kinh Thư, xem Kinh Thư như một tập đại thành, chứa đựng những nội dung khuôn mẫu về đạo đức luân lý trong việc tổ chức xã hội, thực hành khuôn phép trị quốc an dân.
Nghệ thuật tuồng Việt Nam đã hình thành và phát triển mạnh các triều đại phong kiến Việt Nam, nhất là đối với triều Nguyễn. Ngoài chức năng giải trí, tuồng đã góp phần giáo dục đạo đức luân lý xã hội nhằm đưa con người hướng đến chân, thiện, mỹ. Với mục đích xây dựng một vương triều hùng mạnh với những vị minh quân, trung thần tận tụy, hết lòng với sơn hà xã tắc, chăm lo cho muôn dân được sống ấm no hạnh phúc, trong cảnh thái bình thịnh trị như thời Đế Nghiêu, Đế Thuấn.
"Xuống xe so đức Thuấn,
Lên ngai nối nhân Nghiêu.
Dân không lời kẻ ức kêu vang,
Ngục chẳng tiếng người oan kêu khóc".
(Sơn Hậu)
Xây dựng một nền quân chủ lý tưởng, với phương pháp tổ chức triều chính theo lề lối của các bậc đế vương thời thịnh trị của xã hội Trung Hoa đã được các triều đại phong kiến Việt Nam áp dụng trong suốt quá trình trị nước trải qua mấy hàng mấy trăm năm. Song học thuyết Nho giáo chỉ mới đến được với tầng lớp vua quan và những người có học, còn đối với người dân không có điều kiện học hành thì chỉ nhận thức bằng nghe nhìn trực quan thông qua nghệ thuật tuồng và các loại hình thơ, ca, hò vè hay các loại hình văn nghệ dân gian khác. Văn chương tuồng được viết bằng thể loại: nói lối, từ, phú, thơ... nên dễ đi vào lòng người. Nhiều người dân xem tuồng đã thuộc lòng từng đoạn tuồng hay, họ có thể đọc hoặc diễn cho nhau nghe trong lúc nghỉ ngơi sau những buổi lao động mệt nhọc.
Ngự Văn Quân là một vở tuồng cổ (không rõ tên tác giả), được sáng tác và lưu hành ở Huế. Đến những năm 20 của thế kỷ trước, vở tuồng này vẫn còn được Đoàn hát bộ Đồng Hỷ Ban (tiền thân của rạp hát Đồng Xuân Lâu) biểu diễn. Một bản gốc viết bằng chữ Nôm của vở tuồng này được đóng dấu Đoàn hát bộ Đồng Hỷ Ban và ngày diễn: N 17 NOV 23 (tức là ngày 17 tháng 11 năm 1923) hiện đang được lưu giữ tại Viện sân khấu. Phần giáo đầu của bản Ngự Văn Quân này như sau:
"Linh phụng thê Ngự lĩnh,
Thần qui xuất Hương giang.
Trên chúa sánh Võ, Thang,
Dưới tôi phen Y, Lữ
Mỗ Văn Quân tính tự,
Quyền ngự điệt Tấn bang.
Nghề văn đà trải biết mực Hàn,
Việc võ lại làu thông thao lược".
(Ngự Văn Quân)
Ở bản chụp vở Ngự Văn Quân đang lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VHN), đoạn giáo đầu này mang nội dung như sau:
"Chân ngao dời biển bạc,
Cánh phụng vỗ trời xanh.
Lẽo sông vàng nước tỏ thánh minh,
Rạng ngôi báu nghiệp soi Hồng phạm.
Đức lớn khắp nhuần cõi tám,
Chính lành ngợi chữ giềng ba.
Giúp Tấn trào đặt vững nghiệp hồng,
Tôi biểu tự Văn Quân ngự điệt".
Bản tuồng Ngự Văn Quân của Đồng Hỷ Ban mang dấu ấn của Huế một cách rõ nét như: Ngự lĩnh (núi Ngự), Hương giang (sông Hương). Sau đoạn giáo đầu, Tấn vương xưng danh như sau:
"Uy dậy lừng đảng dữ,
Đức lành gợi dân lành, niên phong vật phụ khánh gia hanh.
Ngã xưng Tấn Hoàn vương là hiệu..."
Bản VHN viết như sau:
"Uy dậy lừng chúng dữ,
Đức vỗ trị dân lành,
Trẫm tước hiệu Tấn vương,
Thụ vị cầm ngôi Càn tượng..."
Ta thấy rằng, cách xưng danh của Tấn vương ở vở của Đồng Hỷ Ban chưa phù hợp với vai trò bậc quốc chủ. Chữ “đảng dữ” nghe không được trang nhã nên đã được chữa là “chúng dữ”. Còn đã là vua ít khi tự xưng là “Ngã” nên đã chữa thành “Trẫm”. Tên một vài nhân vật cũng được thay đổi như: Quách Đại Kình (Trấn tướng của nước Tề ở biên giới) được đổi thành Quách Thái Xung; Quách Đại Dương được đổi thành Quách Thái Xương... Nhìn chung, lời thoại, ca từ ở bản Viện Sân Khấu khiêm cung, trang nhã hơn. Như vậy có thể đoán định rằng bản ở Đồng Hỷ Ban ở Viện Sân khấu là bản được sáng tác từ trước còn bản VHN là bản được Ban Hiệu thư thời Tự Đức hiệu đính và sửa chữa. Đặc biệt ngay ở đoạn giáo đầu bản tuồng ở VHN đã xuất hiện các thuật ngữ: hồng phạm, cõi tám, giềng ba, nghiệp hồng... Đây chính là các thuật ngữ được diễn Nôm từ tác phẩm Kinh Thư.
- Hồng phạm (nghiệp hồng): nói về thiên Hồng phạm trong Kinh Thư. Truyền rằng, Kinh Thư do Cơ Tử, một hiền thần đời Thương - Chu soạn. Thiên Hồng phạm được xem là phần cơ cấu tổ chức, nội dung về thể chế nhà nước. Thiên này được xem như là một “Hiến pháp cổ” của Trung Hoa. Các đời vua sau đó đều áp dụng những nội dung trong thiên này để tổ chức về nhà nước và công cuộc trị quốc an dân. Thiên này được chia thành 9 mục gọi là Cửu trù. Cửu trù (9 trù) bao gồm: 1- Ngũ hành; 2- Ngũ sự; 3- Bát chính; 4- Ngũ kỷ; 5- Hoàng cực; 6- Tam đức; 7- Kê nghi; 8- Thứ trung; 9- Ngũ phúc.
- Đức lớn; giềng ba: tức là Tam đức (trù thứ 6 của thiên Hồng phạm) qui định về những đức tính cần thiết đối với người đứng đầu nhà nước (Vua), hoặc người đứng đầu các tổ chức nhà nước áp dụng đối với cấp dưới và người dân. Những đức tính ấy là: chính trực (ngay thẳng); cương khắc (cứng rắn); nhu khắc (mềm dẽo).
- Cõi tám; chính lành: tức là Bát chính (trù thứ 3 của thiên Hồng phạm) Trù này qui định cơ cấu tổ chức các cơ quan đầu mối để đảm bảo cho công việc trị nước gồm 8 việc lớn: 1- Thực (lo về việc ăn uống); 2- Hóa (lo việc hàng hóa, của cải); 3- Tự ( lo về việc tế tự); 4- Tư không (lo về việc đất đai); 5- Tư đồ (lo về việc dạy dỗ); 6- Tư khấu (lo việc hình phạt); 7- Tân (lo việc lễ tân, ngoại giao); 8- Sư (lo việc binh bị).
Khi khảo sát một số bản chụp các kịch bản tuồng chữ Nôm ở VHN chúng tôi thấy yếu tố “Kinh Thư” xuất hiện trên nhiều vở. Vở Kim Vân Kiều truyện, thiên Hồng phạm của Kinh Thư đã được nhắc lại ở hồi kết thúc.
"Trăm năm duyên hợp chữ đồng
Vinh hoa nở chút tấm lòng nhớ trông
Cầm đường ngày tháng thong dong
Chúc mừng Nam quốc nghiệp hồng thiên thu".
Học thuyết Nho giáo với các đề tài về thiên mệnh, tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức đã ảnh hưởng đến đời sống xã hội Trung Hoa và các nước đồng văn, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt quan niệm về Tam cương, Ngũ thường đã chi phối đời sống tinh thần của người dân dưới chế độ phong kiến. Tam cương là ba giềng mối ràng buộc con người theo vai trò quan hệ xã hội bao gồm: Quân thần, phụ tử, phu phụ (cần phân biệt với khái niệm Tam đức trong Kinh Thư, chữ Tam đức cũng thường được diễn Nôm là giềng ba ở trong tuồng). Đối với đạo lý Quân thần, thể hiện ở vai trò trung quân, kẻ bề tôi phải luôn trung thành với các bậc vua chúa; lòng trung ở đây được hiểu là trung quân ái quốc. Đối với đạo lý phụ tử tức là quan hệ giữa cha con phải thể hiện được vai trò phụ từ, tử hiếu. Ở đây phải lấy chữ hiếu làm trọng. Đối với quan hệ phu phụ tức đạo vợ chồng, phải lấy đức thuận, tức là sự hòa hợp để đối đãi với nhau. Cũng như Ngũ luân, là năm mối quan hệ đạo đức luân lý giữa vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bè bạn.
Dưới chế độ quân chủ, Nho giáo được xem là ý thức hệ chính thống gắn bó với thể chế chính trị xã hội. Tất cả mọi người trong xã hội bấy giờ đều phải chịu sự ràng buộc từ các mối quan hệ mà học thuyết Nho giáo đã đề cập. Kịch bản tuồng là một thể loại văn học do các nhà nho sáng tác nên không thể thoát ra khỏi quĩ đạo của tư tưởng Nho giáo. Đa số các vở tuồng đều mượn bối cảnh lịch sử của các nước phương Bắc để hư cấu nên cốt truyện, nhân vật. Nội dung tuồng phần lớn đều xoay quanh những tình tiết mâu thuẫn giữa các quốc gia, sự xung đột của các thế lực vua chúa, quan lại trong triều; vấn đề trung, hiếu, tiết, nghĩa với hình ảnh các bậc tôi trung dốc chí phò vua giúp nước luôn phải đấu tranh với lũ gian thần kéo bè kết cánh, bán nước hại dân... Vì vậy nghệ thuật tuồng ngoài chức năng giải trí, nó còn thực hiện chức năng giáo dục con người. Trong đó những yếu tố trung, hiếu, tiết, nghĩa luôn được đề cao nhằm mục đích hướng con người, đến những giá trị nhân văn cao đẹp trong xã hội phong kiến thời bấy giờ.
"Quân thần là đại đạo,
Phụ tử ấy ân thâm".
(Ngự Văn Quân)
"Sự phụ con đà sáng tiết,
Còn sự quân con khá thơm danh.
Trước ngàn năm rỡ tiết cha lành,
Sau muôn thuở trọn bề con thảo".
(Sơn Hậu)
Chữ “trung quân” bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu trong tất cả các mối quan hệ trong xã hội:
"Lo chữ trung, trung lấy làm đầu,
Còn chữ hiếu, hiếu kia để dạ".
(Sơn Hậu)
Song khái niệm “trung quân” ở trong tuồng cũng được phân biệt rạch ròi: bề tôi hiền đức chỉ “trung” với đấng minh quân, chứ nếu “trung” đối với “hôn quân” thì đó là “ngu trung”.
"Trụ tàn bạo thì ta bội Trụ,
Chu đức nhơn sao chẳng phò Chu".
(An trào kiếm)
Tự Đức luôn mong muốn mình phải là một đấng minh quân, thế thiên hành đạo. Đất nước do ông ta trị vì phải được thái bình thịnh trị. Nhưng thực ra trong thời điểm ấy, đất nước đang phải chịu những áp lực từ những cuộc nội biến và ngoại xâm tạo nên sự bất ổn về chính trị. Việc xây dựng Khiêm Lăng của Tự Đức dẫn đến sự nổi dậy của Đoàn Trưng, Đoàn Trực cùng với lực lượng dân chúng và binh lính tham gia; sự kiện Thân vương Hồng Bảo (anh vua Tự Đức) chống nhà vua... Chứng tỏ rằng, lực lượng chống lại nhà vua lúc bấy giờ không chỉ ở ngoài biên cương mà ngay từ trong triều nội. Chủ trương bế quan tỏa cảng, cấm đạo Thiên chúa, tư tưởng thủ cựu của triều đình đã hạn chế một phần trong việc phát triển đất nước thời bấy giờ. Triều đình ngày càng tỏ ra bất lực và có phần nhu nhược trước sự lấn chiếm của người Pháp. Một số quan lại, nhà Nho đã mất dần niềm tin vào vai trò kẻ sĩ trước hoàn cảnh của đất nước. Vì vậy, những phạm trù về đạo đức, luân lý của Nho giáo trong xã hội lúc đó bắt đầu có sự phân hóa. Tinh thần “trung quân ái quốc”, “vì nước vì dân” của một số quan lại bắt đầu sút giảm. Để hâm nóng bầu nhiệt huyết của các bậc sĩ phu và dân chúng đối với đất nước và triều đình, Tự Đức đã thực hiện nhiều chính sách để phát triển đất nước, trong đó có cả việc phát triển văn hóa. Nhiều tác phẩm do nhà vua và các triều thần sáng tác đã được Tự Đức cho khắc in, trong đó có cả Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du. Ban Hiệu thư được thành lập, qui tụ một số văn quan nổi tiếng do Đào Tấn phụ trách, vừa làm nhiệm vụ sáng tác tuồng, vừa thu thập các kịch bản tuồng khắp nơi trong nước đưa về để hiệu đính sửa chữa nhằm nâng cao giá trị về mặt văn chương cho bộ môn nghệ thuật tuồng. Bên cạnh đó là việc đưa thêm vào tuồng những nội dung tư tưởng Nho giáo “nguyên thủy”, “chính thống” được viết trong Kinh Thư, nhằm góp phần tuyên truyền, giáo dục mọi tầng lớp trong xã hội luôn tuân thủ luật pháp, hết lòng thực hiện chức phận ái quốc trung quân của kẻ bề tôi và dân chúng.
Trong thời điểm đó, việc sử dụng nghệ thuật tuồng làm phương tiện chuyển tải tư tưởng Nho giáo đến tận dân chúng là một việc làm có ý nghĩa. Bởi vì tuồng là bộ môn nghệ thuật được quần chúng bấy giờ yêu thích. Khi xem tuồng, dù sân khấu chỉ là một góc sân đình hay bãi chợ, nhưng với mặt nạ, phục trang cùng nghệ thuật diễn xuất ước lệ, khán giả cho dù là người dân bình thường cũng có thể phân biệt được nhân vật nào là chính, tà; trung, nịnh; vị vua nào là đấng minh quân, ai là kẻ gian thần bán nước, hãm hại bậc trung lương, soán đoạt ngôi vua... Kết thúc của các vở tuồng bao giờ cũng nêu cao chính nghĩa ái quốc trung quân, trừ gian diệt nịnh... mang lại cho đất nước yên vui, muôn dân được hưởng phúc thái bình thịnh trị. Cho dù đó chỉ là ước mơ, song cũng làm thỏa lòng khán giả xem tuồng. Những yếu tố đó đã tạo cho nghệ thuật tuồng phát triển và được mọi tầng lớp quần chúng trong xã hội phong kiến hâm mộ.
Chế độ phong kiến Việt Nam sụp đổ, nghệ thuật tuồng cũng theo đó mà mai một dần. Nhưng dẫu sao, tuồng vẫn là một di sản văn hóa quí giá của tiền nhân để lại. Nên ngay cả khi đất nước đang còn chia cắt, chính quyền của hai miền vẫn quan tâm khôi phục bộ môn nghệ thuật tuồng. Sau khi thống nhất đất nước, tuồng càng được quan tâm hơn. Song trong thời kỳ hội nhập văn hóa toàn cầu như hiện nay, nhiều loại hình nghệ thuật mới hấp dẫn, nội dung gần gũi với cuộc sống hiện đại nên dễ tiếp cận với khán giả trẻ. Vì vậy tuồng đang mất dần khán giả nên việc bảo tồn và phát huy bộ môn nghệ thuật này càng gặp khó khăn hơn, nếu không được quan tâm đầu tư của Nhà nước. Một vấn đề cần đặt ra là hiện nay vẫn còn hàng trăm kịch bản tuồng viết bằng chữ Nôm đang được lưu giữ ở các bảo tàng, thư viện, trung tâm lưu trữ, tủ sách cá nhân... trong nước và ngoài nước. Số kịch bản tuồng cổ chữ Nôm còn lại hiện nay đều là những tác phẩm văn học cổ có giá trị. Nếu được khai thác tốt, chúng ta sẽ chọn lọc được một số kịch bản hay để các đơn vị nghệ thuật tuồng trong nước dàn dựng nhằm bảo tồn và phát huy bộ môn nghệ thuật tuồng. Đặc biệt là khai thác được những giá trị nhân văn của tuồng qua những thông tin về lịch sử, ngôn ngữ, cốt chuyện, nhân vật... thể hiện ở kịch bản tuồng. Đi đầu và trực tiếp làm việc này không ai khác hơn là những nhà nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, văn học, ngôn ngữ, những người làm công tác Hán Nôm ở trong nước và cả ở nước ngoài. Song muốn thực hiện được công việc này cần phải có sự chủ trì, giúp đỡ của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Văn học..., các tổ chức quốc tế về phát triển văn hóa, giáo dục.
Xin chân thành cảm ơn Quĩ Harvard -Yenching đã tài trợ cho tôi nghiên cứu và hoàn thành chuyên luận này.
Chú thích:
(1) Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục. Nxb. Giáo dục, H. 2004, Tập 5, tr.689.
(2) Lời hường là những lời diễn viên nói xen vào để làm rõ thêm nội dung lời thoại, lời hường thường chỉ vài từ hoặc một vài câu ngắn. Lời kẻ là những câu hoặc đoạn văn xuôi diễn viên nói thêm để tường thuật rõ hơn về nguyên nhân sự việc.
(3) Khổng Tử: Kinh Thư, thiên Nghiêu điển, Trần Lê Sáng - Phạm Kỳ Nam dịch chú, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 2004, tr.22, 135.
Một số câu tuồng trích dẫn trong bài, chúng tôi khai thác ở các vở tuồng chữ Nôm: Ngự Văn Quân, An Trào Kiếm, Kim Vân Kiều... đang được lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm và bản tuồng Sơn Hậu diễn truyện do Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa Sài Gòn in năm 1971./.
Nguyễn Thế
Nguồn: (Tạp chí Hán Nôm, Số 3 (89)2008; Tr.55-62)