“Lục cúng hoa đăng” là 6 lần cúng, tương ứng với mỗi lần cúng là dâng lên một thứ lễ vật như: Hương, Hoa, đăng, trà, qủa, thực. Theo Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề trong “Những đại lễ và vũ khúc vua chúa Việt Nam” “Lục cúng hoa đăng” có từ thời cổ do các vị sư Ấn Độ truyền vào nước ta và “Lục cúng hoa đăng” được biểu diễn ở các chùa lớn thuộc hạt Thuận Thành, Văn Lâm, Mỹ Hào, Yên Mỹ, Thường Tín… Nơi thờ Phật Tứ Pháp gồm: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Diện. Đây là 4 vị Phật giúp cho dân có được mùa lúa tốt.
Nghi thức múa “Lục cúng hoa đăng” tại các chùa ngày xưa do hai vị tăng mặc áo cà-sa màu vàng, đầu đội mũ thất - phật trình diễn. Khi múa hai vị sư chỉ cử động hai cổ tay để kiết ấn, xả ấn, hai bàn chân khẻ rê đi dàn ra theo hình chữ "nhật" (lúc dâng hương), hình liên hoa bốn cánh (lúc dâng hoa), hình chữ "á" (lúc dâng đăng), hình chữ "thủy" (lúc dâng trà), hình chữ "vạn" (lúc dâng quả) và hình chữ "điền" (lúc dâng thực). Về sau, các vị tăng không còn múa nữa mà dùng 4 hoặc 8 em nhỏ hóa trang thành Kim Đồng, Ngọc Nữ múa thay. Các em này đầu đội mũ trang kim, mặc áo màu, chân đi bít tất trắng, trên hai khuỷu tay có vắt một mảnh lụa màu vàng nhạt, lúc múa thỉnh thoảng lại tung mảnh lụa lên. Ứng với 6 lần múa có 6 khúc hát, điệu hát ngân nga, du dương, trầm tĩnh. Dứt một khúc hát nhạc công gõ vào não bạt và đánh trống đỗ hồi.
Trong các vũ khúc cung đình, múa “Lục cúng hoa đăng” là một vũ khúc được bắt nguồn từ phật giáo. Theo "Những đại lễ và vũ khúc vua chúa Việt Nam", đời Minh Mạng (1820 - 1839), vua sai viện Hàn Lâm sửa chữa vũ khúc này để biểu diễn trong các ngày lễ vạn thọ, thánh thọ, tiên thọ và lễ cúng mụ của triều đình. Tên gọi " “Lục cúng hoa đăng”" chính thức có từ thời ấy. Sau khi được đưa vào cung đình, cách thức trình diễn đã được nâng lên theo một cấp độ khác như: Số lượng biên chế trong đội múa có 48 vũ sinh vừa nam vừa nữ má phấn môi son, hóa trang thành Kim đồng - Ngọc nữ. Tất cả đều đội mũ hoa sen, thắt dây kết bông, trong mặc áo lót màu lục, tay đính võ lừa(chỗ cửa tay áo lật lên được may bằ ng vải dày hơn vải áo và màu sắc khác thân áo) ngoài mặc áo mã tiên, xiêm trường, quần giáp( Ngày xưa các tướng võ mặc để che bụng, quần giáp nằm ở dưới thắt lưng may bằng vải ngũ sắc cở rộng như cái váy.), chân quấn sà cạp, hai tay cầm hai chậu đèn hoa sen vừa múa, vừa hát trong ánh đèn lung linh mờ ảo nhưng trang nghiêm và không kém phần lộng lẫy. Thời điểm vũ khúc “Lục cúng hoa đăng” được đưa vào cung đình thì nó đã phát triển gần đến độ hoàn thiện.
Múa cung đình đã gạn lọc được cái hay cái đẹp của múa tôn giáo và dân gian. Vì vậy, múa “Lục cúng hoa đăng”, một vũ khúc trong hệ thống múa cung đình đã thể hiện được nội dung, chủ đề bằng những hình tượng múa cụ thể theo cách nhìn về cái đẹp rất Việt Nam. Ngôn ngữ và kết cấu múa của vũ khúc “Lục cúng hoa đăng” khác với những điệu múa Ấn Độ, những nét múa cầu kỳ, nặng nề của múa hiện đại đã được đơn giản hóa và hầu như nó không tồn tại trong múa “Lục cúng hoa đăng”. Những động tác mà diễn viên sử dụng để múa trong các vũ khúc cung đình nói chung và múa “Lục cúng hoa đăng” nói riêng chủ yếu là động tác vũ đạo của nghệ thuật Tuồng như: Xoan, xỏ, ký, cầu, xoay… Ngoài ra, đây là một vũ khúc mang tính hình tượng có sử dụng những yếu tố xiếc tạp kỷ như di chuyển đội hình và xếp chồng người lên nhau. Kết cấu của múa “Lục cúng hoa đăng” là kết cấu của một bức tranh đẹp được trình bày ở cuối mỗi khúc hát và liên tục trong sáu khúc hát như thế.
Dù môi trường diễn xướng trong cung đình hay chùa chiền thì giai điệu hát "Tán" của nhà phật mỗi khi trình diễn điệu múa này vẫn được giữ nguyên. Tuy vậy, môi trường diễn xướng của “Lục cúng hoa đăng” trong phật giáo và cung đình có sự khác nhau. Trong khi “Lục cúng hoa đăng” trong cung đình thường chỉ được trình diễn trong các ngày lễ thánh thọ, vạn thọ, tiên thọ và lễ cúng mụ thì ở phật giáo vũ khúc này chỉ được trình diễn ở những hoàn cảnh đặc biệt như: trong các lễ lạc thành, an vị hay lễ hội, vía phật…(Nếu có tổ chức giải oan bát độ, trai đàn chẩn tế thì vũ khúc này cũng được trình diễn). Biểu diễn vũ khúc “Lục cúng hoa đăng” trong phật giáo là để nguyện cầu cho những người đã khuất, giải thoát oan khiên. Ngoài ra, biểu diễn vũ khúc này cũng còn có ý nghĩa hoàn mãn, vui mừng, chúc mọi người còn sống được thái bình, hạnh phúc, an lạc…
“Lục cúng hoa đăng” là một loại hình nghệ thuật kết hợp nhuần nhuyễn giữa âm nhạc, vũ đạo và ca từ. Nội dung cụ thể và sự sinh động của nó chỉ được truyền đạt trọn vẹn qua sự trình diễn trong một môi trường cụ thể mà nó đang xảy ra.Có lẽ chính vì vậy, nên khi được đưa vào chốn cung đình “Lục cúng hoa đăng” đã được giới quan lại viện Hàn Lâm của triều đình nhà Nguyễn lưu ý đến cái toàn vẹn tổng thể cũng như chiều sâu và bề nổi của nó, với mục đích làm cho nó hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với môi trường diễn xướng là chốn cung đình. Từ khi được đưa vào hoàng cung, “Lục cúng hoa đăng” đã trở thành một điệu múa nghi lễ của cung đình nhưng các ca từ bằng chữ Hán với nội dung ca ngợi đức phật thì vẫn được giữ nguyên. Ví dụ: Trong khúc hát thứ 5 (Tán phật diện).
Phật diện do như tinh mãn nguyệt
Diệc như thiên nhật phóng quang minh
Viên quang phổ chiếu ư thập phương
Hỉ xả từ bi giai cụ túc.
Dịch nghĩa:
Mặt phật như trăng trong đầy đặn
Cũng như nghìn mặt trời tuôn ánh sáng
Hào quang viên mãn soi đủ mười phương
Hỉ, xả, từ, bi đều đủ cả.
Hay trong khúc hát thứ 6 (Tán khể thủ)
…Tự qui y phật
Đương nguyện chúng sinh…
Nhất thiết vô ngại
…
Dịch nghĩa:
…Tự mình qui y phật
Nguyện khắp chúng sinh…
hết thảy không lo ngại…
Nếu chúng ta xâu chuỗi những chấm phá trong quá trình phát triển của vũ khúc “Lục cúng hoa đăng” kể từ khi hình thành cho cho đến lúc được sửa chữa và đưa vào cung đình, ta sẽ thấy đây là một quá trình tìm tòi, tiếp thu những cái hay, cái đẹp từ văn hóa Phật giáo của triều đình nhà Nguyễn. Sự tồn tại của vũ khúc này cho đến ngày hôm nay đã khẳng định rằng, nó đã có một sức hút khác thường để niềm đam mê của nhiều thế hệ nghệ sĩ vẫn còn nguyên vẹn, cũng như sức thu hút đặc biệt của nó đối với người xem. Tuy nhiên, hiện nay môi trường diễn xướng không còn giữ nguyên như thời phong kiến, cho nên “Lục cúng hoa đăng” không còn bảo lưu được chức năng nghi lễ của nó. Việc sưu tầm nghiên cứu để đưa vũ khúc này đi đến độ hoàn thiện như ban đầu còn là một việc làm rất khó khăn. Hiện nay, những người làm công tác nghiên cứu đang cùng với các nghệ nhân, nghệ sĩ Nhà hát Truyền Thống Cung Đình (thuộc TTBTDT cố đô Huế) cố gắng từng bước sưu tầm những tư liệu để bổ sung vào những điểm còn thiếu của vũ khúc “Lục cúng hoa đăng” đang biểu diễn hiện nay.
“Lục cúng hoa đăng” là một điệu múa có tính lịch sử, nếu chúng ta không có tính kế thừa một cách trọn vẹn thì chúng ta sẽ đánh mất một viên ngọc quí trong kho tàng văn hóa nghệ thuật của dân tộc.
Trọng Bình