Bùi Văn Kha
Khi đọc thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc, nhất là ở hai tập Chiếc Ô Đi Lẻ và Hoa Đăng, tôi liên tưởng tới Dante Alighieri hay, đơn giản hơn, Dante (1265 – 1321), một nhà thơ lớn người Ý vào giai đoạn Hậu kỳ Trung Cổ. Tác phẩm Thần khúc được coi là tập thơ quan trọng nhất của thời kỳ Trung Cổ và là tác phẩm văn học vĩ đại nhất bằng tiếng Ý. Trong Về hùng biện bằng tiếng bản xứ, Dante đã bảo vệ việc sử dụng tiếng bản xứ trong văn chương. Ông thậm chí sẽ viết bằng phương ngữ Toscana trong các tác phẩm như Cuộc đời mới và Thần khúc
Thần Khúc là"Kinh Thánh của thời Trung cổ". Trong Thần khúc , Dante đặt ra cho mình một mục đích vĩ đại: giúp loài người thoát khỏi nỗi sợ hãi trước cái chết. Nhiệm vụ này ở thời bấy giờ là vô cùng quan trọng: trong linh hồn con người có một nỗi sợ về những cực hình ở Địa ngục mà người ta vẫn nghe qua những lời rao giảng và thuyết giáo.
Sở dĩ vậy vì trong các sáng tác của mình, Hồ Đăng Thanh Ngọc sử dụng phương ngữ hai châu Ô Rí, khúc giữa miền Trung và ngữ thoại đời sống Huế nhuần nhuyễn như một nhà nghiên cứu văn nghệ dân gian. Ông cũng đồng thoại nghi lễ phật giáo để chọn lựa chúng sinh mà minh tưởng. Hồ Đăng Thanh Ngọc đã đặt vấn đề tử sinh nhân văn trong con đường chân giải!
Điều này làm tôi không thể không nhắc tới Walt Whitman (1819 – 1892) – nhà thơ, nhà báo, nhà nhân văn, nhà cải cách thơ Mỹ, tác giả của tập thơ Lá cỏ nổi tiếng thế giới. Chủ đề xuyên suốt của tập thơ là ý nghĩa của đời sống con người trong mối liên hệ giữa tâm hồn và thể xác, giữa thần thánh và người trần mắt thịt, sự tiến hóa của những hình thái cuộc sống, sự bình đẳng giữa mọi sinh linh và cuộc phiêu lãng muôn thuở của linh hồn trong quá trình sinh, tử và hồi sinh lại.
Mười năm đầu thế kỷ 21, Việt Nam đã Đổi mới được 20 năm. Khi cái vật chất đã được ấm no, thì cái tinh thần phải được nâng lên để hoà cùng nhịp đời sống tinh thần thời đại. Gốc của hoạt động tinh thần là linh hồn. Ở Việt Nam, Phật giáo và Lương giáo chiếm đa số. Bằng tự ý thưc thiền huệ, Hồ Đăng Thanh Ngọc hành trình phân thân thành các nhân vật khác nhau nhằm chân giải hồi ức và đồng đại.
(Tôi rất hay băn khoăn giữa tôn giáo không và tôn giáo Lương, hồi nhỏ trong bản lý lịch của tôi là lương giáo. Phân biệt Lương – Giáo là từ thời vua Minh Mạng. Chính Bác Hồ cũng dạy lương (tức người dân thiện lương theo nho và phật) và giáo (người Công giáo) phải đoàn kết. Tiện thì nói đôi dòng thế thôi, chứ cái đã qua là qua).
Trong trường ca Hoa Đăng của Hồ Đăng Thanh Ngọc gồm 12 khúc hơn 900 câu thể thơ tự do trình bày liên ý theo cách Tân Hình thức , tôi trích một đoạn nhỏ ở đầu khúc 7 và điệp khúc ở cuối khúc này.
“Bấy giờ người lính trở về cởi chiếc mũ tai bèo móc lên chiếc gạc nai
Ngay khi đọc bài thơ này, tôi đã sững sờ bởi phương pháp luận và tình cảm của nó. Đau lắm chứ, nhưng thuỷ chung lắm chứ. Đau là hồi ức. Thuỷ chung là tấm lòng không buông bỏ, mà buông bỏ làm sao được.
Chủ ý này còn ở bài Xin Hãy Bắt Đầu. Người Pháp có một câu logic thật hay: Vừa bắt đầu, đã kết thúc!
Tôi nhớ Thế Lữ có câu thơ truyền kỳ huyền diệu: “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy/ Ngàn năm chưa dễ mấy ai quên” là thuộc tình đôi lứa! Còn Việt Phương thì: “Anh bắt đầu từ em/ Như trời xanh bắt đầu từ ánh sáng”.Thế Lữ làm khoảng nửa đầu những năm 1930, còn Việt Phương làm nửa đầu những năm 1970, cách đấy 40 năm. Lại 40 năm sau, vào khoảng trước Đại lễ 1000 năm Thăng Long, Hồ Đăng Thanh Ngọc có:
Đây là dấn thân hiện sinh. Lý trí không thể quyết định thay tình cảm. Mọi lý thuyết đều là màu xám, còn cây đời mãi xanh tươi! (Goethe). Tôi muốn nói về hiện sinh Việt Nam. Hiện sinh thế giới với Heidegger, Kỉerkgaar, J p Satre, A Camus,…nhất và đặc biệt là J p Satre : tuyên bố nội dung cốt lõi của chủ nghĩa hiện sinh là Hiện hữu có trước bản chất. Điều này có nghĩa rằng điều quan trọng nhất đáng để lưu tâm đối với các cá nhân đó là họ là các cá nhân - các thực thể hành động độc lập và tự chịu trách nhiệm, có ý thức (tức "hiện hữu") - hơn là những nhãn dán, vai trò, kiểu người (tức "bản chất") được quy định trước khác. Chính cuộc sống thực tế của cá nhân là những gì tạo nên cái có thể gọi là "bản chất thực sự" của họ thay vì một bản chất có sẵn được quy kết một cách tùy tiện bởi người khác. Do đó, con người, thông qua ý thức của chính mình, kiến tạo ra các giá trị của chính mình và xác định ý nghĩa cho đời sống của mình. Ở Việt Nam, những năm 1930 – 1960 còn ảnh hưởng của văn học và âm nhạc Pháp lấy hữu thể lãng mạn làm chủ thể cảm hứng sáng tạo và khẳng định cái tôi hiện hữu. từ những năm 1965 trở đi, khi Mỹ đưa nửa triệu quân (bao gồm cả chư hầu) vào miền Nam, cuộc chiến giữa Mặt trận Giải phóng với Mỹ và tập đoàn Sài Gòn diễn ra ác liệt hơn cả thế chiến 2, hơn cả nước Đức và Nhật năm 1945, đến nỗi mạng người như cỏ rác, làm tầng lớp thị dân, nhất là thanh niên rơi vào khủng hoảng cuộc sống, mất lòng tin vào nhân văn, tuyệt vọng về ngày mai. Nhạc Vàng ra đời, bộc lộ nỗi người bằng triết lý âm thanh. Dù sao, âm nhạc và thơ phổ nhạc, chứ không phải văn học và kịch, phản ánh chính yếu con người đô thị miền Nam. Mặt tích cực nhất, ngoài tính anti chiến tranh, còn là sự giải thoát cá nhân trước thực trạng xã hội và vận mệnh con người. Tôi dành sự chuyên sâu này ở một dịp khác, vì ở đây, sự minh triết hiện sinh đã xác lập chỗ đứng về thi pháp của Hồ Đăng Thanh Ngọc 10 năm đầu thế kỷ 21.
Như ở bài Mùa Đông. Mùa thu vàng hoa cúc là biểu tượng của thi ca, bỗng nở mùa đông, là phi lý, nhưng có thể. Nhưng cái lạnh xuất từ đấy làm ta cảm thấy nó khác cái lạnh của thời tiết. Đó là ngộ giác. Ngay cả cái hư vô tưởng chừng vô hình bỗng thành hữu thể, và buồn. Đây là đặc trưng của phi lý, phi thể, cảm giác đồ vật hiện hữu, kể cả phi lo gic. Thế giới cá thể (individual) đóng cửa, nhưng không khép hết, để yêu, bất chấp (chấp theo nghĩa phật lý). (Nhân đây cũng nói Hoa đăng của Hồ Đăng Thanh Ngọc là biểu trưng của nghi lễ Phật giáo nhằm kính dâng các chư vị Phật. Ở thơ của Hồ Đăng Thanh Ngọc, Hoa đăng còn là thuyền tải đạo, là biểu tượng thi pháp).
Cảm hứng đom đóm là của tuổi thơ. Giờ Hồ Đăng Thanh Ngọc nâng lên thành cảm hứng của thời. Người chắc chắn sẽ lớn lên, sẽ qua tuổi thơ, sẽ quên đom đóm. Nhưng nếu không còn đom đóm, chuyện Halloween sẽ không còn. Sự vùi lấp những câu chuyện cũ nhân văn là tội lỗi. Ở đây là hiện sinh chúng sinh của lẽ tự sinh, không cần biện giải.
Những con đom đóm
Em đã cho tất cả xuống biển
Biển lại hất tất cả lên bờ
Những gì sống nó ngọ nguậy
Những gì chết đang tím tái
Anh nhìn thấy cái trong veo nằm trên cát
Không phải là một con sứa
Hay một con nuốt
Không phải là một con sao biển
Nó trong veo nhìn anh
Như mắt em
Đã nhìn anh trước bão
Qua khung cửa sổ dưới hiên nhà trời mưa
Anh đã đi qua đó trong vùng nước ấm
Hình như có tiếng chuông nhà thờ đổ hồi
Giữa lúc bầy chim rủ nhau trú bão
Bay về phương trời xa xôi
Đôi giày anh ướt mèm
Như đôi môi anh
Như nụ hôn chúng mình
Đã nhàu nát trên bờ gió yêu
Bị bão quần nát từ ngoài khơi
Hình như cái trong veo là nụ hôn rách rưới cả bầu không khí đó
Rách đến tận hồn và bật máu
Bão đã quần nát và bây giờ nó nghỉ ngơi để chúng ta vá víu lại
Cuộc tình như những đám mây
Kết đám mây xám với đám mấy trắng và vàng và đỏ
Tình yêu như những cơn mưa từ đó
Trong veo và rách nát
Không có gì
Mùa đông Huế mưa rơi trên tán cây sầu đông bên bờ sông Hương
Neo cuộc tình vào cọng rong quấn theo bánh lái con thuyền
Trôi về đâu đó
Tự nhiên thèm một dĩa ốc cay trên phố Phan Bội Châu
Để nghe em hít hà với cái lưỡi đỏ au màu ớt chín
Trong đêm tự tình cơn bão đi qua
Tôi thấy tả về nỗi cô đơn của người đàn bà, như bài thơ Hoàng Hôn, có lẽ trong thơ Việt Nam, là một truyện tranh, không, đúng hơn, là một truyện ngắn hay nhất. Thi ca dựng được đời người, không có bối cảnh xã hội, không có nhân vật khác, chỉ cái Một của trạng huống trở thành cái chung thông qua cái riêng, cái riêng hiện diện của cái chung, sẽ là mô đun trong văn học. Sự chờ đợi dài hơn một thế hệ là lẽ thường ở Việt Nam, nhất là vợ lính, thuộc cả hai bên. Cái nhân văn được đẩy lên tận cùng của cái triệt để tồn tại hữu thể.
Căn phòng bắt đầu tối
Ánh sáng bên ngoài lần lượt tháo chạy
chập choạng cánh dơi như
lũ tàn quân rủ nhau về cuối chân trời
Bám vào chiếc sừng trâu gặm thêm chút cỏ ngọt cuối ngày
Trên cánh đồng hoang hoải
Bắt đầu mở lời càm ràm ếch nhái
Chị ngắt cọng rau chiều
Thả vào cơn rười rượi
Đun bếp nhen những sợi khói lạc bầy
Chuông chùa đổ hồi đầy mâm cô đơn
Đã ba mươi năm rồi như thế
Chị một mình
Nuốt nghẹn hoàng hôn
Tính hiện sinh minh triết hiện rõ, và trực diện trong bài Nến.Tĩnh vật đen là hữu hình giới hạn, khác với tiếng gõ cửa trong vở kịch Trong khi chờ Godot là sự chờ đợi một người không quen biết. Ở Nến, người hoạ sĩ vẽ, và thêm chi tiết vào. Đó là sự mặc định nghề nghiệp. Bức tranh tĩnh vật cháy cùng ánh sáng. (Có một người đổ mực Tàu vào giấy trắng và bảo đó là vẽ đêm, nhưng dù gì thì cũng được thẩm định bằng ánh sáng). Cái mà người hoạ sĩ không khống chế được là gió (từ phiếm chỉ, hàm ẩn). Tĩnh vật đen là cái chết, hiểu theo một nghĩa nào đó.
Ngọn nến thắp lên trong đêm
Và cháy lên bức tranh tĩnh vật
Sự lay động của đốm sáng
Và người hoạ sỹ bắt đầu vẽ
Có thể thêm một chiếc sừng trâu của vành trăng khuyết
Có thể thêm lời hát thì thầm của rêu
Có thể thêm đêm nguyện thề của cỏ
Có thể là những ánh mắt
sang ngang
Có thể...
Nhưng dầu sao đi nữa
Gió ơi đừng làm tắt nến
Bởi tĩnh vật đen là giới hạn cuối cùng
Tồn tại của Ham let là tự ý thức tồn tại. Đó là sự bắt đầu của individual. Và giữa cái lặp lại của cái Tầm thường (hay kể cả cái Cao cả), phải “ta là một,…”. Tuy không ngạo nghễ, nhưng chiếc ô là khoảng trời riêng. Đó là điều kiệc cần của sáng tạo. Ở đây có cái không hiện ra, là một nửa của mình. Âm em, vừa là không có em, vừa là khoảng chưa hiện ra. Đó là bản thể.
Hàng Bè phố cổ
Người đi xích lô, đi xe đạp, đi xe máy, đi tắc xi, đi...
Trôi từ thứ hai đến chủ nhật
Âm em
Tây ba lô trôi
Những gánh rau quả trôi
Những gánh bánh bao trôi
Những chiếc rổ tre bất động
Con cá vẫy đuôi trong hẻm Gia Ngư
Quẫy mùa yêu trống trải
Hàng Bè ngày mưa
Chỉ chiếc ô đi lẻ loi
Kéo theo bàn tay ướt
Minh triết hiện sinh là một thời kỳ sáng tác của Hồ Đăng Thanh Ngọc. Trong trường ca Hoa Đăng , 12 khúc ca tả từng phận người, từng cảnh người, với rất nhiều cung bậc tình cảm, rất nhiều phương ngữ, đọc lên như hát, đậm giọng hò Huế. Để nói về ông, không thể một chuyên luận nhỏ mà hết được. Sự đóng góp của ông với văn học nghệ thuật là một bước đi trầm ổn cho biểu tượng Huế. Ông cũng làm dày thêm cho tư tưởng và thi pháp trong văn học Việt Nam.
Xin được khép lại bài viết này bằng bài thơ Ngày Cũ của Hồ Đăng Thanh Ngọc. Ông gộp cả 7 tập của Đi tìm thời gian đã mất của Marxen Proust chỉ bằng một bài thơ, dễ hiểu và mơ ước.
Tờ lịch cuối cùng rơi xuống
Bỗng nhiên mưa như trút hết nỗi buồn lên thành cổ
Nỗi buồn cong hay thời gian cong?
Ngày cũ là những chiếc cầu vồng
Có chú bé tặng cho cô bé trong sân trường một con gà đan bằng cỏ
Hôm ấy cũng sau cơn mưa, nắng lên và chiếc cầu vồng hiện ra trong mắt trẻ.
Bầu trời sao mà trong xanh cao vọi thế!
Ôi thời gian cong!
Những mùa cỏ gà rồi cũng đi qua
Những tờ lịch rơi
những mùa mưa rơi
những nỗi buồn rơi cong
những cầu vồng và những thời gian cong
Tôi treo mình trên một chiếc lá nhạc ngựa
Nghe tháng ngày lóc cóc nhảy nhót hót chơi
Ước gì có đủ sức để uốn thời gian cong vòng lại
Để tôi gặp lại ngày cũ
Chỉ để nhổ một cọng cỏ gà
Tặng cho cô bé hoàng hậu
Rồi đi...