Trong thời kỳ ngắn ngủi và đặc biệt này, ông đã yết kiến vua Thành Thái, kết giao với Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và một số trí thức tân học khác. Vĩnh Quyền, khi sưu tầm tư liệu để viết truyện dài lịch sử Mạch Nước Trong (NXB. Thanh Niên, Hà Nội, 1986) rất chú ý đến thời kỳ này. Anh cung cấp cho chúng tôi 19 bài thơ chữ Hán chưa hề được dịch của Trần Quý Cáp. Những bài này do Tiêu Đẩu Nguyễn Bá Trác - một môn đệ của Trần Quý Cáp - sao lục và đăng trong phần Văn Uyển, tạp chí Nam Phong, số 74 và 76 năm 1924.
Dưới đây, chúng tôi dịch và giới thiệu 4 bài tiêu biểu Trần Quý Cáp viết trong thời kỳ ở Huế, trước ngày ông lao vào cơn bão Duy Tân, chống thuế rồi bị xử chém (17 tháng 5 Mậu Thân, 1908).
1. TAM GIANG TẢ PHIẾM
Tam giang giang thượng phiếm xuân tình,
Khai thác hà niên nộ lãng bình
Chu tiếp để kim lâm Sở ngạn,
Phong vân hồi thủ vọng Tần kinh.
Viễn thôn liệt thụ chi như kích,
Lăng hiểu cô ngư đỉnh há thành
Độc hữu xạ triều nhân bất kiến,
Trung lưu kích thủy phòng ca hành.
Dịch nghĩa: BUỔI SÁNG THẢ THUYỀN TRÊN TAM GIANG.
Mùa xuân tạnh ráo, thả thuyền trên sông Tam Giang (1)
(Vùng sông này) mở mang năm nào mà bây giờ đã hết sóng dữ?
Mái chèo giờ đây đến bờ nước Sở (2)
Gió mây ngoảnh lại trông ngóng kinh đô nước Tân (3).
Hàng cây bày ra ở xóm xa, cành như giáo mác;
Cá đem bán suốt buổi sáng, thuyền con về thành phố.
Chỉ có nước triều rút nhanh (như bắn súng) là người ta không thấy được,
Giữa dòng sông, (ta) chèo mạnh, cất bài ca, thuyền đi.
Dịch thơ:
Sông Tam Giang buông thuyền xuân tạnh
Đào năm nao, sóng giận đã yên?
Nhắm bờ nước Sở chèo Iên
Gió mây ngoảnh lại ngóng bên kinh Tần
Xóm xa cây tựa ngàn giáo mác
Thuyền cá về sáng mát thị thành
Nước triều ai biết xuống nhanh
Hò dô ta hát bài hành thuyền đi.
2. QUY CHU KỶ KIẾN
Bồng bồng miêu thử giang chi my,
Tiểu đỉnh tà xanh trúc ảnh thùy
Tiềm hữu vi ngư xuân thủy trướng,
Lâm thê túc điểu vãn phong đi.
Tư khư (4) dã phụ hạ thôn khứ,
Tái mễ thương thuyền bàng ngạn xuy,
Cánh hữu đông đông hà xứ cổ,
Tà dương thôi khách xướng tân thi.
Dịch nghĩa: LUI THUYỀN, GHI ĐIỀU MẮT THẤY
Lúa non, lúa nếp xanh mơn mởn bên bờ sông,
Thuyền nhỏ chèo lúc chiều trong bóng tre rủ xuống
Con cá chìm ẩn trong nước sông mùa Xuân đang lớn;
Con chim ngủ trong cây rừng, gió tối xao động.
Người thiếu phụ miền quê đi lể mể ở xóm dưới;
Chiếc thuyền buôn chở gạo, thổi cơm chiều bên bờ sông.
Lại có tiếng trống tùng tùng ở đâu vọng tới,
Bóng chiều (như) giục khách ngâm lên một bài thơ mới làm.
Dịch thơ:
Mượt mà lúa nếp bên sông
Chiều tà – thuyền nhỏ chèo trong bóng chiều
Cá chìm ngại nước xuân triều
Chim ngủ đỗ cây rừng chiều gió rung
Xóm quê thiếu phụ bước chùn
Thuyền buôn chở gạo bên sông nhóm lò
Tùng tùng vẳng tiếng trống xa
Thơ ngâm giục khách, chiều tà đuổi theo...
3. PHIẾM CHU TAM GIANG, ỨC HỮU, THƯ THỬ TÍNH KÝ (5)
Quân thị Yên ba cựu điếu đồ, (6)
Xuân phong xuy duệ thướng Huyền đô (7)
Cuồng ca năng sử quần tiên đảo, (8)
Túy nhãn hồi khán nhất tọa vô.
Thường thức tầm thường kiêm nữ sử (9)
Hung hoài thác lạc ký xư bồ. (10)
Đông Ba (11) tạc dạ đào thanh tráng,
Hận bất huề quân đáo Ngũ Hồ. (12)
Dịch nghĩa: THẢ THUYỀN Ở TAM GIANG, NHỚ BẠN, VIẾT BÀI NÀY GỬI BẠN.
Anh là một tay đi câu ngày trước trong cảnh khói sóng (anh là dật sĩ thanh cao),
Gió Xuân thổi bay tà áo đến Huyền đô.
Ca hát ngông cuồng có thể khiến các vị tiên nghiêng ngửa
Trong mắt say, quay nhìn lại, một tòa nhà cũng không còn!
Hiểu biết bình thường (của anh) gồm cả chuyện giới nữ lưu;
Lòng ôm chí lớn đã buông thả (thì) gởi cho cây xư, cây bồ.
Đêm hôm qua ở bến sông Đông Ba, tiếng sóng rộ lên,
(Tôi) giận (mình) sao không dìu anh đến Ngũ Hồ.
Dịch thơ:
Khói sóng ngày xưa anh thả câu,
Gió xuân bay áo... cõi Mơ nào?
Ngông cuồng hát tới, bầy tiên đổ,
Say khướt nhìn lui, chẳng thấy lầu!
Hiểu thấu chuyện thường: thêm các chị
Tung hê chí lớn: gởi ngàn lau!
Đông Ba đêm trước ầm ào sóng
Lòng giận... Ngũ Hồ chẳng đón nhau...
4. TAM GIANG LIÊN CÚ (13)
Hà sơn thiên hiểm cổ Ô châu,
Kỳ tạo Mân khai (14) duyệt Kỷ thâu (thu)
Vạn lãnh chu tao hoàn phượng khuyết,
Nhất giang khuất khúc bảo ngư hầu (15)
Xuân phong cô tửu kiều biên đỉnh,
Thang dạ trù binh trúc hạ lâu.
Kiều thủ Bình Sơn đa vượng khí
Miếu đường (16) kinh hoạch hữu gia du.
Dịch nghĩa:
LUI THUYỀN TRÊN PHÁ TAM GIANG (Thơ Liên cú)
Đất châu Ô xưa, sông núi và trời hiểm trở.
Đất Kỳ, đất Mân (ở Trung Quốc) gầy dựng và mở mang đã trải bao năm?
Muôn ngọn núi vây quanh kinh đô;
Một giòng sông uốn khúc như ôm lấy miệng cá.
Trong gió xuân, bên chân cầu, có chiếc thuyền nhỏ bán rượu,
Vào đêm vắng, (có người) bàn việc binh cơ trong mái lầu có bóng tre rủ xuống.
Ngửng nhìn núi Ngự Bình có nhiều vượng khí,
(Có lẽ) nơi miếu đường (nhà vua) cũng đã trù hoạch những mưu kế hay!
Dịch thơ:
Hiểm thay đất cũ châu Ô
Mở mang thuở ấy đến giờ bao năm?
Núi muôn đợt - cửa vua nằm
Sông một khúc - miệng cá giăng ôm trùm
Bên cầu, thuyền rượu, gió xuân
Trên lầu tre rủ, việc quân đang bàn
Nhìn lên núi Ngự mênh mang,
Tốt sao khí thịnh, miếu đường mưu sâu!
Ngô Thời Đôn
dịch và chú thích
(TCSH41/02&03-1990)
---------------
(1) Tam Giang: Phá Tam Giang ở Huế.
(2),(3) Bờ Sở Kinh Tần: Sở và Tần là hai nước thời Xuân Thu Chiến Quốc đang lâm chiến. Có lẽ tác giả viết vậy để ám chỉ thời cuộc. “Gió mây” chỉ sự lập công danh, phải chăng tác giả kín đáo nói về tâm sự mình (như Kinh Kha vào đất Tần)?
(4) Tư khư: dáng đi lể mể, nặng nhọc.
(5) Lúc Phan Chu Trinh ở Huế (1902 - 1904) Trần Quý Cáp tặng Phan bài này.
(6) Trương Chí Hòa ẩn sĩ đời Đường, tự xưng là “Yên ba điếu đồ” (Phường câu trong khói sóng). Lúc ở quê nhà, Phan Chu Trinh nổi tiếng đi câu.
(7) Huyền đô: “đô thành huyền hoặc”, chỉ cõi tiên.
(8) Phan Chu Trinh có tài hát xướng, ngâm ngợi.
(9) Trần Quý Cáp nhắc chuyện Phan Chu Trinh quen một nữ sĩ đàn giỏi, thơ hay ở Huế.
(10) Loài cây vô dụng. Ý nói muốn sống như người thô vụng.
(11) Sông đào Đông Ba hoặc đoạn sông Hương chảy ngang trước chợ Đông Ba (Huế).
(12) Năm cái hồ lớn ở Trung Quốc, chỉ thắng cảnh nói chung.
(13) Liên cú là lối thơ mỗi người làm một câu cho đến hết bài. Có lẽ đây là sáng tác tập thể của Trần Quý Cáp, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… khi gặp nhau ở Huế? vào mùa xuân 1904.
(14) Kỳ, Mân: tên của 2 trong 3 vùng đất (Mân, Kỳ, Phong) do ông khai sáng và đưa giáo hóa của Văn chương nhà Chu (Trung Quốc) lập nên. Từ hai vùng này, Văn Vương mở thêm đất Cảo và các vùng khác. Phải chăng, các tác giả muốn nói đến sự quan trọng của vùng đất đầu tiên, bàn đạp về phía Nam của Tổ quốc ta?
(15) Ngư hầu: Họng cá. Có thể hiểu hai cách: a/ Địa thế tự nhiên của kinh thành Huế; núi bao bọc vòng ngoài, sông Hương bọc vòng trong; kinh thành lọt thỏm vào trong, tựa như nằm trong miệng cá(?) b/ Dòng sông Hương chảy bao lấy Mang Cá, một góc hiểm yếu của phòng thành Huế.
(16) Miếu đường: Chỗ vua và các quan làm việc; đây chỉ Thành Thái, một vị vua có tư tưởng yêu nước.