Nhưng đâu phải! Bởi lẽ đã hết cả các loại vua trên đất Huế này rồi, - vua phong kiến và kể cả vua... tư sản! Tấm áo ngự bào từ trên Ngọ Môn kia đã rơi xuống vĩnh viễn. Cờ sọc, cờ que cũng bay biến khuất chìm.
Con sông Ngự Hà vẫn cuộn quanh hoàng thành. Cần gì phải đổi tên. Hãy để yên tên nó như Bến Ngự - nơi người ta mãi nhớ "ông già Bến Ngự" Phan Bội Châu trắng áo, trắng râu tóc và chiếc thuyền con như một hình ảnh không phai mờ "câu tâm sự gửi chim ngàn cá biển, đau lòng trong di chúc.
Ngự Hà - con sông nhân tạo vẫn đẹp và vẫn càng đẹp với những mùa sen của nó.
Ngự Hà! Nếu như Ngô Đình Diệm kịp thực hiện cái công trình Tiểu khu La Mã của thứ "gia đình công giáo trị" thì chắc đến nay cũng chả còn gì để nhắc nhở đến dải lụa nước biếc xanh kia.
Ông già Ân sáu mươi lăm tuổi, hàng xóm của tôi trong một chiều rỗi rãi bên đường Canh Nông thường than thở... để mừng:
- Suýt nữa thì tôi cũng chẳng còn ở đây! "Ông" Diệm đã đuổi nhà từ trên cống Vĩnh Lợi và sắp đuổi xuống xóm này. May mà "ông" bị giết sớm! Hồi ấy, gia đình "ông" Diệm định phá bỏ Đại Nội đi để thay vào đó một nhà thờ đạo. Bản vẽ thiết kế đủ cả rồi. Từ cột cờ thẳng tít tắp theo trục "dũng đạo" cũ sẽ chiếu thẳng vào Tiểu Chủng Viện Tây Linh - bây giờ là trường phổ thông cơ sở phường Thuận Lộc. Ông Ân nhấn mạnh thêm - hồi ấy tôi chả là nhân viên công chánh nên tôi biết, tôi đã được xem bản vẽ. Hẳn là hồ sơ vẫn còn bên cơ quan gì bây giờ ấy. Ông Diệm bảo toàn nước Mỹ là công giáo cả!!!
Thế đấy! Suýt nữa... đúng như lời ông già Ân - mà đâu chỉ riêng một gia đình ông Ân! Cũng là may cho Đại nội, cho con sông Ngự Hà ấy. Nếu không chắc ông Tổng Giám đốc UNESCO Amadu Mata Bô cũng chả đến đây làm gì để mà tuyên bố "Huế phải được cứu vãn, cứu vãn cho Việt Nam. Huế là một cao điểm thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc và cứu vãn Huế cho thế giới, vì Huế cũng là một bộ phận không thể tách rời của di sản văn hóa loài người".
Lời tuyên bố ấy đã được ghi lại từ những ngày sau 1975!
Ngự Hà! Một khung trời mây,
Một dải lụa như tấm khăn voan uốn theo dạng hình lập thể vô băng (vauban) hòa mờ vào những thảm sương mỏng mùa Xuân, nắng hun mùa Hạ, kể cả màn mưa xối xả vào Thu, vào Đông của thành phố Huế đã bao năm bừng thức dậy.
Ai đã đến Huế vào cuối Xuân sang Hè, khi ngọn gió Nam Lào quạt qua lưng đèo Lao Bảo Quảng Trị, thì ở cố đô này bắt đầu đã rộ lên một mùa sen. Sen Ngự Hà, sen Tĩnh Tâm, sen hồ Nội, sen hồ Học Hải (Tàng Thư). Đây đó đều là sen. Trên cái mảng xanh bàng bạc lẫn dần vào vòm cây xanh sẫm của cây vườn, những đàn cò trắng lặng yên bắt đầu hiện lên, rãi đều tít tắp - sen nở...
Chiều chiều tiếng học bài của em bé cứ dóng lên đều đều thành một điệp khúc:
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Và bỗng như bài học ấy, bài hát ấy lại vào trong tôi mà chính tôi đã từng thuộc nó thuở cái tuổi bằng em bé kia. Ờ nhỉ, tôi ôn trí nhớ, tôi lật nhiều trang sách sao không hề thấy nói đến một màu sen hồng nào cả, mà chính trên những hồ kia, trên Ngự Hà kia lác đác cũng có những màu hồng đơn chiếc chen lẫn. Chả nhẽ không đủ chữ để gieo theo một vần "hồng" trong thơ sao?.
***
Tốt nhất là tìm đến những người trồng sen. Bao nhiêu người trong tổ hồ Tĩnh Tâm, Ngự Hà là những người sản xuất quen thuộc, nhưng người cuối cùng được xem như một "bậc thầy" lại là ông Luật. Trên ba mươi năm ông đã tận tụy với loài hoa, loài hạt này.
Trước mặt nhà ông là một hồ rộng - Nội Hồ. Mười cây dừa cao ngọn như làm khung cho khoản nước nuôi sen. Một hàng vối xanh đậm lá in bóng xuống mặt hồ và cũng in bóng vào lối ngõ.
Chiếc bàn nhỏ, ít cái ghế con đầy bóng mát cho khách nhìn xuống hồ. Hương sen chiêu đãi tự do thoang thoảng trong không khí trong lành. Thơm mà dịu. Êm ả và nên thơ.
- Bác ở đây quả là tuyệt vời. Sen nuôi bác cả thể xác lẫn tinh thần! Tôi mở đầu không khách sáo.
- "Nghề chơi cũng lắm công phu" mà nghề tôi lại là nghề thật.
Ông mượn câu Kiều để mở đề rồi pha trà mời. Trà ướp sen. Ông phân bua:
- Cũng được cái nước lúc nào cũng thơm!
Tôi đi vào câu chuyện về sen. Như đủ nhấp giọng rồi, ông thong thả:
- Trồng sen cũng vất vả lắm! cái xứ Huế này, mưa - anh biết rồi đó. Tối mày tối mặt! Tháng bảy nước nhảy lên bờ. May ra hăm ba tháng mười âm lịch mới hết lụt. Vào tháng mười một, ấm trời là chúng tôi bắt đầu vào vụ. Từ cả những mầm sen trổi dậy. Đó là nói như sen tốt, còn không thì phải trồng lại, khoảng ba năm một. Có khi sen rụi, hỏng thì phải trồng lại hàng năm. Phải lấy giống như ngọn khoai, lấy từ nhánh thư ba, cũng trồng thành luống thành bụi, giăng hàng chữ "ngũ" nghĩa là trông theo như hình cái ghế. Tất nhiên cuối mùa trước vào khoảng tháng sáu, sau khi lấy củ rồi, phải lo làm đất nghĩa là sửa lại đáy hồ. Phải vén cào hết rong rêu gai góc đi. Bùn đáy phải nhảo không được sét quánh.
Sau mười hay mười lăm ngày là phải làm cả rong, nước loãng. Những cái hồ quanh thành nội này cũng như Ngự Hà đều nhiều rong - cũng có lợi cho những gia đình nuôi lợn đấy, nhưng với sen thì hại. Vớt cho sạch rong, vớt váng, vớt bèo. Nếu không, sen không lên nổi. Thậm chí nước quá sâu, thì đến bao giờ mới thấy mặt sen. Cũng phải chăm như là chăm cây lúa. Nhưng cây lúa khi gieo mạ còn thấy hạt giống, chứ sen thì phải sang tháng giêng mới là là mặt hồ. Càng phải săn sóc nhiều. Được sức, ấm trời thì sen hạt sẽ ăn ngon, mà gặp lụt thì ôi thôi! hết vốn! - lúc ấy thì y như người làm ruộng ô ngập nước.
Ông Luật lại chuyên một lần trà nữa rồi tiếp:
- Mùa đổ sen - chúng tôi gọi là "đổ", như mùa gặt lúa. Sen nở kín mặt nước thì nơi tốt chỉ còn thấy bông thôi, bởi mỗi nách là một bông, mà lại là bông màu trắng, nên càng dễ nhận. Anh trông chả như một đàn cò là gì - cò đậu khi còn búp - cò bay lúc sen đã nở...
- Sao người ta ít trồng sen hồng?
- À - tôi sẽ nói sau. Phải làm chòi canh gác sen. Đấy là những cái chòi ven hoặc ở giữa hồ, tưởng là nằm mát đấy nhưng con mắt nhắm lại là có kẻ đã hái sen rồi đó. Họ thích cái hoa - cũng đúng thôi, nhưng gương hạt chưa chín thì chỉ là để chơi, khác với chúng tôi là người thu hoạch hạt. Mà cái giá trị chính là kết quả cuối cùng ấy. Chúng tôi phải theo dõi khi cánh rụng rồi, xem hạt chín bói ửng màu da bò thì là mới chuẩn bị. Trong nghề chúng tôi phải qua mắt nhận xét từ lúc nó vàng mơ đến đen rằn ri thì đỗ. Khi hột khô, hột mới có huyết, là bóc hột ra một đầu có tí màu nâu như huyết. Thời gian cứ tiếp tục từ năm đến bảy ngày một lứa. Chiếc xuồng con ghé mũi vào mà ngắt, mà khoèo, mà giật cho gương sen rơi vào xuồng.
Cái giống sen Huế này lạ lắm. Sen Ngự Hà, Tĩnh Tâm bây giờ đã gần thuần một giống. Trước đây cónhiều loại gọi theo tên nghề nghiệp:
- Mặt nhăn - đấy là nói cái gương. Trồng sen chủ yếu lấy hạt, mà hạt là căn cứ vào gương, cho nên hay nói mặt là thế. Loại mặt nhăn không tốt, ít hạt, thường bị lẫn giống, tuy hạt có to.
- Mặt trẹt - chính là loại tốt nhất. Mặt gương phẳng tốt chịu gió nam - gió Lào. Gương vừa ngang tầm lá, vì thế được lá bảo vệ nên không bị gãy, bị xiêu.
- Bộp lồi Vân dương - cây to, cao tốt, hạt to nhưng lại không chịu được mưa gió, nhất là gió nam. Mười hạt chỉ còn ba bốn. Nhưng nhìn hạt thì cũng sướng mắt, có hạt to bằng quả nhãn lồng.
- Bộp không lồi - loại này cũng giống loại trên, năng suất không cao.
- Sen hồng - loại này bông nhỏ, gương nhỏ, chỉ để làm cảnh cho vui, nên chúng tôi không trồng. Lỡ có bông nào lẫn vào thì phải tìm cách bỏ đi, hoặc gặp thì ngắt cho các em bé.
... Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng, lá xanh...
- Anh xem có ai nói đến sen hồng đâu.
- À ra thế!
Hóa ra cha ông chúng ta cũng đã có kinh nghiệm về nghề sản xuất này rồi chăng! Chỉ tiếc rằng không đi sâu vào tìm hiểu thì cũng dễ vũ đoán ưa chuộng một màu sen hồng (- dĩ nhiên là không ai cấm) ít mang lại lợi ích cho nguồn sống.
Ông Luật như muốn nói cho hết cái kho trí thức lao động về sen:
- Một gương tốt phải được đến năm mươi hạt. Cho nên cái gương phải bằng cái bát.
Câu chuyện về sen tưởng chừng như khô khan, đầy chữ nghĩa, kỹ thuật, nhưng ngoài cuộc đời cây sen, tôi bỗng hiểu thêm một nét mới trong ca dao cổ... "nhị vàng, bông trắng... lá xanh".
- Tôi phải thêm một giống sen ở Tĩnh Tâm, đó là sen cánh gián, cũng còn gọi là sen tiến, có nghĩa là sen dâng vua như các loại "cam tiến", Bố Hạ, "mía tiến" Triệu Tường... Dân thì quen gọi là sen hột mây, vì hạt nhỏ như hạt mây, nhưng bổ, thơm, ngon, hương vị thật đặc biệt. Bây giờ ta ít trồng. Tiếng tăm "gạo de An Cựu" như thế nào thì sen hột mây Tĩnh Tâm cũng thế.
Ông Ân kết thúc buổi lý thuyết bằng một đoạn vè cũ về xứ Huế:
Xa sông thì phải nhớ nguồn
Nhớ chùa Thiên Mụ, nhớ Hòn Chén thiêng
Nhớ mười hai nhịp Trường Tiền
Đông Ba nhớ chợ, lên thuyền, xuống xe
Đi mô cũng nhớ mà về,
Chén cơm An cựu nồi chè Tĩnh Tâm.
Nồi chè Tĩnh Tâm chính là nồi chè nấu bằng sen hột mây. Nghe đâu cái bài vè ấy là của một chị Việt kiều ở Pháp làm để nhớ Huế. Cái tình người xa quê nó thành ra cụ thể là thế. Chắc rằng một ngày nào đó lại có bài cho sen Ngự Hà.
***
Ngự Hà! Con sông của vua chúa một thời. Nó lồng bóng một khung trời mây như lụa uốn với hoàng thành. Những chiếc cống hình vòng cung xây cuốn bắc ngang, mang những cái tên quý phái trang trọng: Vĩnh Lợi, Lương Y, Thanh Long ngoài một đôi cái tên dân dã như Cống Cầu Kho. Toàn là đá Thanh tấm lớn.
Có nhà nho trước gọi Ngự Hà là Hoàng Tuyền - Suối vàng - suối dưới Âm phủ. Nhà nho châm biếm giải thích "Hoàng Tuyền là suối nhà vua" nhưng từ ngữ thông thường đã xác định ngữ nghĩa của nó, nên dân gian đều hiểu được thâm ý của nhà nho. Chả là con sông vua chúa ấy chỉ dùng vào một việc - khi có những phi tần, lính tráng trong cung chết (trừ vua) thì linh cữu sẽ đưa xuống thuyền theo dòng Ngự Hà, rồi qua cống Thanh Long, để ra sông Đông Ba. Do đấy ngày xưa Ngự Hà không trồng sen.
Ngự Hà hôm nay vẫn là con sông cũ ấy. Nhưng những mùa sen đã mang hương, mang hạt đến cho Huế và xa hơn nữa. Từ đáy nước Ngự Hà, sen đã ngoi lên "chẳng tanh mùi bùn". Những hợp tác trồng sen Thuận Thành, Thuận Lộc và quanh một vùng sông này đã xem con sông ấy là ruộng đất thật sự. Nếu người nông dân gọi hạt lúa là hạt ngọc, thì những hạt sen qua tháng năm tháng sáu cũng là hạt ngọc quý của những người trồng sen.
Hẳn không nên dài dòng về lá, về tim, về hương, về củ... đã được xem là dược liệu.
Từ đáy nước Ngự Hà đã có những mùa sen.
Những khung trời đầy mây trắng không in bóng xuống lòng sông nữa, khi đã có ngàn ngàn hoa sen trắng nở rộ trên mặt nước Ngự Hà.
Huế tháng 6-1985
TẤN HOÀI
(19/6-86)