Bút ký - Tản văn
Dùng dằng sông Hương
09:13 | 23/06/2017

Lâu lắm tôi mới có dịp trở lại Huế, được một người bạn văn nghệ mời đi ăn cơm quán Âm phủ cho biết. Quán cơm có lịch sử lâu đời, nhưng các món ăn thì không ngon lắm. Anh bạn văn nói vui, đã là quán “âm phủ” phải khác chứ sao ngon như trần gian được hỉ? Chúng tôi cùng cười. Bỗng người bạn như chợt nhớ ra điều gì, vỗ trán, rồi quàng vai tôi nói nhỏ: “Mi có thích nghe ca Huế trên sông Hương không?” Như gãi đúng vào chỗ ngứa, tôi òa lên thích thú rồi hẹn nhau đúng 8 giờ tối đến bến đò.

Dùng dằng sông Hương
Người bạn vì bận chút việc nên lỡ hẹn, không sao, tôi cứ đợi mà lòng thì nôn nao khó tả, trong khi bao người đã mua vé lên thuyền rồng hớn hở, còn mình lòng cứ “dùng dằng” một ý nghĩ không may... Phải mất 15 phút sau người bạn mới đến. Thế là cả hai được cô bán vé cho lên một thuyền rồng khác đuổi theo, hai thuyền cặp kề nhau, chúng tôi bước qua mạn thuyền thì ai đã vào chỗ nấy; và màn trình diễn ca Huế mới bắt đầu. Thuyền như không trôi nữa mà cứ “dùng dằng” theo âm vọng. Tôi chợt nhớ hai câu thơ rất hay của nhà thơ Thu Bồn: “Con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Phải, Huế rất sâu về lịch sử và văn hóa, nhưng Thu Bồn không nói con sông Hương lịch sử, mà nói con sông biết chảy vào tâm hồn con người. Thì đây, đúng giây phút này tôi mới cảm nhận được hết ý thơ Thu Bồn. Có phải cũng trong khoảnh khắc giao hội này, Thu Bồn đã từng ngồi nơi đây, trên con thuyền này và viết câu thơ sâu lắng? Dù sao, tôi cũng thấy bóng dáng ông trong câu thơ tuyệt bút, khắc họa cùng người xưa về mảnh trăng trôi trên sông Hương thế nào. Tiếc quá, đêm nay lại không trăng, nhưng nhờ thành phố rực ánh đèn nên cầu Tràng Tiền đúng là đang nạm bạc như thơ. Người con gái áo tím đứng lên giới thiệu chương trình, giọng đúng chuẩn “dạ thưa” trong thơ Bùi Giáng, ngọt ngào và sâu ấm lạ. Với tôi, giọng Huế cũng thường nghe, nhưng sao đêm nay hoàn toàn khác, nó du dương và trong trẻo quá. Nhất là khi giàn đồng ca cất lên, tôi như lạc vào một thế giới khác, thế giới của mộng ảo thần tiên. Tiếng tre, tiếng trúc, tiếng tơ đồng, tiếng phách nhịp gõ đầy vun cung bậc, thanh tao thần thái. Có chút gì đó phảng phất giọng nhã nhạc cung đình, nghe trang trọng hồn phách mà lãng mạn khôn cùng. Tất cả khán thuyền im phăng phắc. Tiếng đàn nguyệt, đàn bầu dẫn dắt những mê hồn đi từ xứ này sang xứ khác của mộng ảo. Những nhà nhiếp ảnh trơ ra đó, bấm máy chứ chụp sao được tiếng ca vô lượng lấp loáng trên mặt sông. Điều khiến người nghe ưng ý nhất là không dùng micro, tiếng ca đơn mộc truyền vào hồn rất cảm xúc. Nghe mà như không nghe, điều này đúng vì tiếng Huế trầm buồn, có khi chỉ thưởng thức chứ chưa chắc đã “tròn vành rõ chữ”. Âm đơn nặng mà phiêu, giọng buồn man mác mà lắng, câu từ giản mà sâu...Tất cả, tất cả nói lên “rất Huế”, mộng và thơ bây giờ mới hợp lại thành một cung bậc dành cho tâm hồn. Dù ai khô cứng bao nhiêu cũng trở thành tinh tế, cũng trở thành phiêu hốt, vì bàng bạc trong ca từ là chất giọng kiêu sa, tình tứ, thứ tình tứ mỹ lệ chứ không sến sáo. Đó là điều mà không phải nền văn hóa nào cũng có được. Sông Hương, vốn được chảy qua bao triều đại phế hưng, mang trong mình “dòng nước cung đình”, lấp lánh những tinh ba đền đài triều các, nên mỗi thời khắc hiện ra mỗi nhiệm màu của vang hưởng thi ca. Thi sĩ họ Hàn đã từng viết:”Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?”. Quả thật, lòng tôi cũng đang mơ có phép màu nhiệm nào đấy “chở trăng về” để tôi và bạn tôi thưởng thức. Bởi tôi biết, ngồi giữa khán thuyền lặng nghe ca Huế, nhưng hồn mỗi người mỗi khác. Có khi ca Huế chỉ được vài trống canh trong hồn người này, nhưng với hồn người kia, một lần đến với ca Huế là một khắc sâu cái tình yêu đằm sâu ấy với Huế. Cho nên người ta gọi “Huế thương” chính là gọi chút đằm sâu ấy vậy. Không đằm sâu thì Huế đâu còn trong lòng mọi người đến giờ này! Mỗi tiết mục đồng ca, đơn ca đều âm hưởng một “Huế thương” rất mực. Những nghệ nhân chơi đàn cũng để lại ấn tượng khó quên, ngoài cung cách chơi đàn thời thượng, họ còn là những ca nhi có thể hoán vị cho nhau. Tất cả đều còn trẻ, hình như họ chơi vì yêu ca Huế hơn là vì thu nhập. Tiết mục hát đối phá tan bầu không khí diễm lệ là chất hài Huế, diễn viên nam nữ diễn xuất rất tài tình, mộc mạc. Những câu hát đối trí tuệ và phồn hoạt xen nhau. Điều đó chứng tỏ các cụ ngày xưa cũng “công phu” lắm mới để lại những câu đối đáp thông minh, gây cười khúc khích; tục mà thanh thoát, phàm mà cao siêu chứ không nhàn nhạt kiểu hài ba xu trong thời thị trường đâu đó. Cuối cùng là tiết mục thả hoa đăng, du khách ai cũng tự nguyện mua cho mình một chiếc đèn thật đẹp, rồi lần lượt thả xuống sông. Có một chiếc thuyền con vừa ghé bến, trên thuyền là vợ chồng lão ngư, râu tóc bạc phơ, chắc tuổi đã ngoài tám chục mà vẫn chèo chống với kiếp sông nước giang hồ kiếm miếng cơm, manh áo. Những ngọn đèn mờ tỏ trôi lững lờ, như thắp cho linh hồn sông chút hoài niệm đã lui vào ký ức trăm năm. Đêm ấy, cũng là lần đầu tiên ấy, một ngọn nến hồng tự tay tôi thả trôi bồng bềnh, như có sức hút huyền bí đã trôi vào hồn tôi, để bây giờ ánh sáng ấy cứ lung linh không chịu tắt. Nó như được thắp bừng lên trong trí nhớ, mỗi khi ngọn gió đông hiu hắt quay về... Và hình ảnh vợ chồng ngư phủ già, quanh năm sống trên dòng Hương ấy, cứ hiện lên mồn một với nụ cười nhăn nheo, vừa phúc hậu vừa kiêu bạt, đã khiến tôi nghĩ về “Ông già bến Ngự” sau khi bôn ba hải ngoại, đã lui vào mái lá đâu đây, và những câu thơ ông khắc vào Hương giang vẫn còn vọng mãi với chốn địa linh nhân liệt này.
 
Mê đắm quá, bởi đây là lần đầu tiên nghe ca Huế trên sông Hương, tôi mon men bắt chuyện với các ca nhi, và được biết trong các tiết mục có bài thơ “Nữ sinh Đồng Khánh” của nhà thơ Mai Văn Hoan. Thì ra là người anh văn nghệ mà tôi từng biết danh, hạnh phúc quá, thơ mà được các ca nương này thuộc nằm lòng rồi hát cho bàng dân thiên hạ tứ xứ về nghe, thì không hạnh phúc nào bằng! Thế là “thấy sang bắt quàng làm họ”, tôi đọc thơ cho em nghe và hỏi han chuyện trên bờ dưới bến. Em đề nghị tôi nên nghe lại lần nữa vào tối mai, vì mỗi đêm chỉ có một lần ca Huế trên sông thôi. Nhưng em có biết đâu, mai tôi lại phải vào Nam rồi. Con thuyền hình như hiểu chúng tôi hơn, cũng bồng bềnh trôi chậm. Lúc này tôi mới nhớ ra có lần mình đã viết: “Sông Hương,/ Sợi đàn tranh thao thức một cung trầm...”, tôi đề nghị với ca nương nán lại thêm chút nữa cho tôi được “thao thức” lần này với đất thần kinh. Em nói, có người từng ví sông Hương dài như kiếm báu, tôi ví như sợi đàn tranh làm em thích thú mỉm cười và sẵn tay nắn nót một cung trầm não đoạn. Thì ra người bạn tôi và du khách đã lên bờ. Tôi và em cứ để cho đêm trôi vào cổ tích, và mùi hương mà tôi lắng nghe có phải là mùi thơm cỏ Thạch xương bồ không thì tôi không biết, nhưng đêm thơm rất Huế, từ tóc em phiêu bồng chảy xuống. Không trăng, không vì vậy mà không huyền ảo, tôi và em chìm vào huyền ảo của triều đại mình, dù người chủ thuyền lịch thiệp ngồi ở phía sau tay lái hút thuốc. Thi thoảng ông ngâm rất nhẹ, một khúc ca mơ hồ nào đó của dĩ vãng, khiến đêm là những mảnh vỡ được lắp ghép trong một bài hát hoàn hảo ố vàng.
 
Rồi đêm cũng về tới bến, khách trên bờ đã thưa thớt, chủ thuyền nhắc chúng tôi lên bờ với nụ cười cảm mến. Cuộc nói chuyện giữa chúng tôi vẫn còn nhiều khoảng lặng, dù sao cũng cảm ơn một người rất Huế đã cho tôi thấm cái vị giác của dòng sông là gì. Tôi muốn nói cảm ơn em mà không nói được, đành “dùng dằng” chia tay trong trạng thái luyến tiếc. Chợt nhớ câu thơ tuyệt hay của Phan Huyền Thư khi viết về Huế rằng: “Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽ/ lại sợ chạm vào nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam...”. 
 
 
Theo Nguyễn Thánh Ngã - Văn nghệ
 
 
 
 
 
 
 
Các bài mới
Nhịp sóng xanh (03/10/2017)
Các bài đã đăng
Đời tóc (21/06/2017)
Mùa đi mót (12/06/2017)
Hoa Kim Anh (02/06/2017)