Phê bình - Nghiên cứu
Sự tiếp nhận văn học Nhật Bản ở Việt Nam từ những thập niên cuối thế kỷ XX đến những năm đầu thế kỷ XXI - Nhìn từ phương diện dịch thuật và nghiên cứu
08:47 | 19/11/2014
Sự tiếp nhận văn học Nhật Bản ở Việt Nam từ những thập niên cuối thế kỷ XX đến những năm đầu thế kỷ XXI - Nhìn từ phương diện dịch thuật và nghiên cứu

Nhà giáo, nhà văn Hà Văn Lưỡng
Hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế
Hiện đang giảng dạy tại Khoa Ngữ văn Trường Đại học Khoa học Huế





HÀ VĂN LƯỠNG   

Sự tiếp nhận văn học Nhật Bản ở Việt Nam từ những thập niên cuối thế kỷ XX đến những năm đầu thế kỷ XXI - Nhìn từ phương diện dihj thuật và nghiên cứu                    

1. Đặt vấn đề

Trong hoạt động văn học, tiếp nhận văn học là một trong những vấn đề quan trọng. Tiếp thu những tinh hoa của văn học thế giới để làm phong phú thêm nền văn học nước nhà là một vấn đề lớn, cấp thiết đối với văn học Việt Nam, đặc biệt trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa của thế kỷ XXI.

Văn học Nhật Bản là một trong những nền văn học lớn của châu Á và có vị trí xứng đáng trong ngôi nhà chung của văn học thế giới. Ảnh hưởng của văn học Nhật Bản đối với nhiều nước trong khu vực “văn hóa chữ Hán” và một số nước khác trên thế giới đã để lại những dấu ấn khá đậm nét. Văn học Nhật Bản đến với độc giả Việt Nam từ những thập niên đầu thế kỷ XX và xuyên suốt thế kỷ cho đến mấy chục năm đầu thế kỷ XXI, trong đó giai đoạn cuối thế kỷ XX trở đi đã diễn ra quá trình tiếp nhận rất mạnh mẽ.Vì vậy, phác họa bức tranh dịch thuật và nghiên cứu văn học Nhật Bản ở nước ta từ những thập niên cuối thế kỷ XX đến những năm đầu thế kỷ XXI là một việc làm quan trọng, có ý nghĩa. Qua những nghiên cứu này, chúng tôi chỉ ra một cách khái quát toàn bộ những tác phẩm văn học Nhật Bản được phổ biến ở nước ta, giúp cho người đọc lĩnh hội có tính hệ thống những thành tựu của nền văn học lớn này.

2. Phác thảo bức tranh dịch thuật văn học Nhật Bản ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI

Vào những thập niên cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, bộ mặt thế giới đã có nhiều biến đổi mang tính bước ngoặt. Cùng với sự sụp đổ của Liên bang Xô viết (1991) và sự tan rã của hệ thống XHCN các nước Đông Âu, thế giới từ đa cực trở thành đơn cực, chấm dứt thời kỳ song hành hai hệ thống thế giới và không còn chiến tranh lạnh. Thế giới đã biến đổi nhanh chóng và trật tự xã hội mới được thiết lập lại.

Ở Việt Nam, cùng với công cuộc đổi mới, mở rộng quan hệ đa phương đa chiều với nhiều nước trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, việc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Nhật Bản (1973); thành lập Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản tại Việt Nam (1993); việc hình thành đội ngũ các dịch giả, các nhà nghiên cứu văn hóa, văn học Nhật Bản ở nhiều viện, trung tâm, các trường đại học xã hội và nhân văn... vào cuối thế kỷ XX đến nay đã mở ra một giai đoạn phát triển mạnh mẽ trong việc dịch thuật và nghiên cứu văn học Nhật Bản.

2.1. Xuyên suốt hai thế kỷ, trong khoảng hơn ba chục năm (từ những năm 80 của thế kỷ XX và chục năm đầu thế kỷ XXI), văn học Nhật Bản được phổ biến ở Việt Nam đạt kỷ lục cao nhất về số lượng tác phẩm xuất bản. Những tác phẩm này được dịch qua bản tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Pháp... trên cơ sở tham khảo, đối chiếu với bản gốc. Với đội ngũ dịch giả hùng hậu đủ thành phần, lứa tuổi, bên cạnh những tên tuổi lâu năm như Phạm Mạnh Hùng, Thái Bá Tân, Nhật Chiêu, Bằng Việt, Trương Chính..., những thế hệ kế tiếp đông đảo, trẻ trung xuất hiện: Phạm Vũ Thịnh, Cao Việt Dũng, Hạnh Liên, Dương Tường, Lương Việt Dũng, Đoàn Long, Đỗ Khánh Hoan... Các nhà xuất bản lớn trong nước: Nxb Hội nhà văn, Nxb Văn học & Nhã Nam, Nxb Trẻ, Nxb Văn nghệ TP.Hồ Chí Minh, Nxb Đà Nẵng, Nxb Tác phẩm mới, NxbPhụ nữ..., những tạp chí Văn học nước ngoài, tạp chí Nhà văn, Nghiên cứu văn học, Nghiên cứu Đông Bắc Á, báo Văn nghệ..., giữ vai trò quan trọng đối với việc giới thiệu văn học Nhật Bản đến bạn đọc nước ta.

Trong hai thập niên cuối thế kỷ XX, mở đầu giai đoạn mới tiếp nhận văn học Nhật Bản trên phương diện dịch thuật diễn ra sôi động và một khối lượng khá lớn tác phẩm đến với bạn đọc. Hơn chục năm đầu thế kỷ XXI, văn học Nhật Bản được dịch và xuất bản với số lượng ngày càng lớn. Những tác phấm của R.Akutagawa, Y.Kawabata, H.Murakami, R.Murakami, Y.Banana..., được độc giả nước ta hâm mộ và yêu thích. Với cái nhìn tổng thể về thể loại, chúng tôi phác họa bức tranh dịch thuật văn học Nhật Bản mấy chục năm qua:

- Về tiểu thuyết: Theo thống kê, tìm hiểu  của chúng tôi, từ năm 1980 đến 2013 đã có gần 140 cuốn tiểu thuyết  Nhật Bản được xuất bản ở Việt Nam (trong đó có một số cuốn tái bản lần 2, lần 3). Nếu những năm cuối thế kỷ XX chỉ có khoảng 50 tác phẩm được dịch thì hơn chục năm đầu thế kỷ XXI con số này lên đến gần 90 tác phẩm. Đó là những tác phẩm: Đường đến nguồn nước của H.Caduro (Nxb Lao động, 1984, Xuân Du dịch), Khuôn mặt người khác của K.Abe (Nxb Đà Nẵng, 1986, Phạm Mạnh Hùng dịch), Đèn không hắt bóng của D.Watanabe (Nxb Nghĩa Bình, 1986, tái bản 1994, 2003, 2013), Người thủy thủ bị biển khước từ của Y.Mishima (Nxb Văn học, 1999), Rừng Nauy của H.Murakami (Nxb Văn học, 1997, tái bản 2006)... Từ đầu thế kỷ XXI đến nay, tiểu thuyết Nhật Bản được dịch với một số lượng rất lớn, đặc biệt xuất hiện khá nhiều tác phẩm cúa các nhà văn nữ. Có thể nêu những tác phẩm như: Người đẹp say ngủ của Y.Kawabata (Nxb Hội nhà văn, 2000, tái bản 2010), Xuyên thấu, Màu xanh trong suốt của R.Murakami (Nxb Văn học, 2008), Gối đầu lên cỏ của N.Soseki (Nxb Hội nhà văn, 2012), Xấu của Natsuo Kirino (Nxb Thời đại & Nhã Nam, 2013), Rắn và khuyên lưỡi của K.Hitomi (Nxb Văn học &Nhã Nam, 2009), Thất lạc cõi người của O.Dazai (Nxb Hội nhà văn, 2011)... Những tiểu thuyết gia Nhật Bản được dịch nhiều nhất là: H.Murakami (13 tiểu thuyết), Y.Kawabata (6 tiểu thuyết), R.Murakami (6 tiểu thuyết)... Trong số này, nhà văn H.Murakami, cho đến nay là tác giả đạt kỷ lục tác phẩm dịch nhiều nhất ở nước ta (13 tiểu thuyết, 05 tập truyện ngắn, 01 tự truyện). Đó là các tiểu thuyết: Biên niên kí chim vặn dây cót, Kapka bên bờ biển, Người tình Sputnhik, Ngầm, 1Q84... Trong số nữ tiểu thuyết gia Nhật Bản giới thiệu ở Việt Nam vào thập niên đầu thế kỷ XXI, nổi bật là những tác giả: Yamada Amy (sinh 1959), Yoko Ogawa (sinh 1962), Banana Yoshimoto (sinh 1964) và Mitsuyo Kakuta (sinh 1965)... đoạt nhiều giải thưởng lớn trong nước và khu vực. Được đánh giá là một nhà văn có “sự hòa trộn tuyệt vời của tính tưởng tượng đích thực và khả năng quan sát sắc sảo” (theoGoodreads), Y.Amy được dịch ở Việt Nam  03 tiểu thuyết và một tập truyện ngắn (Đôi mắt ấy vẫn ở trên gường (Nxb Hội nhà văn, 2008), Sống lưng của Jesse (Nxb Văn hóa Sài Gòn, 2008), Trò đùa của những ngón tay (Nxb Văn học, 2009) và tập truyện ngắn Phong vị tuyệt vời (Nxb Hội nhà văn, 2010). “Là bậc thầy kể chuyện..., với những nỗi đam mê được mô tả một cách tinh tế, kín đáo, đầy sức mạnh qua một ngôn ngữ giản dị...”, Banana Yoshimoto được độc giả Việt Nam biết đến với 04 tiểu thuyết và 02 tập truyện ngắn (Kitchen, N.P, Vĩnh biệt Tugumi, Amrita và Thằn lằn, Say ngủ) xuất bản từ năm 2006 đến 2008. Nữ tác giả Yoko Ogawa có 03 tiểu thuyết  giới thiệu với bạn đọc nước ta: Quán trọ hoa diên vĩ (Nxb Văn học, 2008), Nhật ký mang thai (Nxb Văn học, 2009), Giáo sư và công thức toán (Nxb Hội nhà văn, 2009).

Sự xuất hiện ngày càng nhiều tác phẩm các nhà văn nữ Nhật Bản ở nước ta với nhiều phong cách khác nhau, một mặt giúp chúng ta hiểu thêm hiện thực xã hội qua cách nhìn của giới nữ, mặt khác khẳng định những giá trị thẩm mỹ, nhân văn của văn chương xứ Phù Tang. Như vậy, có thể khẳng định rằng, sự xuất hiện  ngày càng nhiều tiểu thuyết văn học Nhật Bản ở nước ta trong suốt mấy chục năm qua đã chứng tỏ sự nỗ lực rất lớn của các dịch giả, các Nxb và nói lên giá trị to lớn của văn chương xứ sở hoa anh đào.

- Về truyện ngắn: Các truyện ngắn Nhật Bản dịch ở Việt Nam trong thời gian qua với số lượng lớn và được giới thiệu dưới dạng các tuyển tập do nhiều nhà xuất bản ấn hành hoặc đăng trên các tạp chí, các báo. Hầu hết những truyện ngắn này của các nhà văn lớn, nổi tiếng thuộc thời kỳ hiện đại và đương đại. Bên cạnh những tác giả được dịch nhiều như R.Akutagawa, Y.Kawabata, H.Murakami, Y.Banana... và được xuất bản thành các tuyển tập, một số truyện của S.Ishinara, T.Michio, A.Abe, M.Shikibu... cũng được giới thiệu.

Cho đến nay có khoảng 22 tuyển tập truyên ngắn  Nhật Bản (khoảng 200 truyện) và trên  150 truyện  in trên tạp chí, báo, tổng cộng gần 400 truyện  ngắn đã được giới thiệu  ở nước ta. Đó là những tuyển tập: Truyện ngắn Nhật Bản hiện đại (Nxb Tác phẩm mới, 1985), Trong rừng trúc, Hạc chiều của R.Akutagawa (xuất bản 1989, 2006), các tập truyện của H.Murakami: Đom đóm, Sau cơn động đất, Ngày đẹp trời để xem Kangaroo, Người ti vi... (Nxb Đà Nẵng 2006, 2007), Bên trong (Nhiều tác giả, Nxb Thuận Hóa, 2010). Ngoài ra, hàng trăm truyện ngắn của nhiều tác giả khác cũng được in  trong  các tập truyện như: 20 truyện ngắn đặc sắc Nhật Bản (Nhiều tác giả,Nxb Thanh niên, 2008), Truyện ngắn nước ngoài chọn lọc (Nxb Phụ nữ, 2003), Truyện dịch Đông Tây (Nxb Lao động, 2005), Vùng im lặng của biển (Nxb Công an nhân dân, 1995), Gấu núi ở Namotoko của K.Miyadawa (Văn nghệ quân đội, số 4/1985), Mẫu phấn thần của K.Abe (Báo Văn nghệ, số 13/1985), Sợi tơ nhỏ của R.Abutahara (Sông Hương, số 21/1986)... và ở nhiều tạp chí khác.

Như vậy, với số lượng rất lớn, truyện ngắn Nhật Bản ở nước ta trong mấy chục năm qua đã khẳng định vị thế và giá trị trên văn đàn, luôn hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.  
                                                                 
- Về truyện dân gian: Đất nước Nhật bản là xứ sở của nguồn truyện cổ dân gian, gắn với bao truyền thuyết, huyền thoại. Cho đến nay, đã có hàng chục tuyển tập, nhiều  truyện dân gian Nhật Bản  đã xuất bản và in trên báo, tạp chí  lên đến khoảng  300 truyện. Phần lớn  các truyện trên  giới thiệu ở Việt Nam vào cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI.   Chúng tôi điểm qua một số tập truyện như: Truyện dân gian Nhật Bản (28 truỵện) do Thúy Toàn dịch và tuyển chọn, Nxb Hà Nội, 1987; Hẹn mùa hoa cúc (9 truyện) do  Nguyễn Trọng Định dịch, Nxb Văn học, 1989; Truyện tiếu lâm Nhật Bản do Nhật Chiêu dịch (Nxb Văn hóa dân tộc, 1993); Truyện cổ Nhật Bản (50 truyện), Đặng Minh Huệ dịch, Nxb Văn hóa thông tin, 1998; Truyện cổ tích Nhật Bản (55 truyện), Nguyễn Thị Bích Hà dịch, Nxb Đại học QG Hà Nội, 1999... Trong  khi dịch các truyện dân gian Nhật Bản, các dịch giả đã chú ý khá đầy đủ các loại truyện thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, trong đó truyện cổ được dịch nhiều hơn cả. Điều này hoàn toàn hợp lý, vì thể loại này phổ biến trong văn học cổ trung đại, chứa đựng nhiều giá trị nhân văn, thẩm mỹ.

- Thể loại thơ và kịch: Hai thể loại này dường như dịch còn quá ít  ở nước ta. Theo chúng tôi, nguyên nhân chủ yếu do thể loại này chưa phải đạt thành tựu lớn so với văn xuôi, hơn nữa để chuyển tải thơ và kịch qua một ngôn ngữ khác là một công việc không dễ dàng.

Đến nay, có khoảng 6 tuyển tập thơ ca Nhật Bản  (in chung hoặc riêng) xuất hiện ở Việt Nam và hàng trăm bài thơ đăng trên các báo, tạp chí Trung ương và địa phương. Đáng chú ý nhất là các tập: Basho và thơ Haiku Nhật Bản (do Nhật Chiêu dịch, Nxb Văn học, 1994, gồm 118 bài ), Thơ ca  Nhật Bản  (Nxb Giáo dục, 1998), Thơ cổ Phương Đông  (Thái Bá Tân  tuyển chọn, Nxb Lao động, 2001, gồm 130 bài thơ tanka ), Vườn thơ trăm hương sắc (Trần Thị Chung Toàn dịch, Nxb Thế giới, 2000), Hợp tuyển văn học Nhật Bản  của Mai Liên (Nxb Lao động và TT văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2010, có 140 bài )... Các tạp chí Văn nghệ quân đội, Tác phẩm mới, Sông Hương và báo Văn nghệ, Văn nghệ trẻ, Kiến thức... cũng đăng tải nhiều thơ (Chùm thơ của M.Tawava -VNQĐsố 9/1992; Thơ 5 câu Nhật Bản - Văn học nước ngoài, số1/2002...). Trong thơ Nhật Bản phổ biến ở Việt Nam, thể thơ haiku và thơ tanka được dịch nhiều hơn cả với những tác giả Basho, Issa, Buson, Shiki... Việc ra đời Câu lạc bộ thơ haiku ở Việt Nam và xuất bản hai tập thơ haiku Việt (Tuyển tập thơ Haiku - Nxb Lao động, 2008; Thơ Haiku Việt -Nội san tháng 10/2009...), đã khẳng định tầm quan trọng và sức hấp dẫn của thơ haiku đối  với người đọc nước ta.

Nghệ thuật sân khấu Nhật Bản nói chung và thời cổ trung đại nói riêng nổi bật ở thể loại kịch Noh, kịch Kabuki, múa rối Joruki, nhưng các tác phẩm đó còn quá hiếm hoi đối với người đọc nước ta. Chỉ mới có một vở kịch Noh của Zeami (Sotoba Kamachi ) do Mai Tâm dịch, đăng ở Nguyệt  san Giác ngộ, số 35, 36 xuất bản ở TP Hồ Chí Minh, 1999 trong số hàng trăm vở kịch Noh của gia đình dòng họ Zeami.

2.2. Từ bức tranh dịch thuật, giới thiệu tác phẩm văn học Nhật Bản như trên, chúng tôi thấy rằng: Rõ ràng, những thập niên qua, văn học Nhật Bản đến với người đọc nước ta  một khối lượng khá lớn, đủ các thể loại. So với một số nền văn học khác, có thể khẳng định, văn học Nhật Bản ở Việt Nam chiếm tỷ lệ cao hơn. Thể loại văn xuôi (tiểu thuyết, truyện ngắn) được dịch nhiều hơn cả, đặc biệt các nhà văn thời đương đại. Tiếp đến là văn học dân gian (chủ yếu truyện dân gian), với số lượng không nhỏ, trong đó nổi bật là truyện cổ, thần thoại. Thể loại thơ và kịch dịch còn ít chưa đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của người đọc. Nếu nhìn theo chiều lịch đại (thời gian) thì những năm đầu thế kỷ XXI, số lượng xuất bản các tác phẩm văn học Nhật Bản ngày càng nhiều, phong phú hơn so với trước đó.

3. Những nghiên cứu về văn học Nhật Bản ở Viêt Nam mấy chục năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI      
                                               
Bên cạnh công tác dịch thuật, việc nghiên cứu văn học Nhật Bản ở nước ta trong  vài chục năm qua cũng thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Điều này thể hiện qua các công trình nghiên cứu được xuất bản, những bài viết công bố trên  tạp chí, báo Trung ương và địa phương, chuyên ngành.

3.1. Từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay có khoảng gần hai chục cuốn sách  nghiên cứu về văn học Nhật Bản được xuất bản. Nếu cuối thế kỷ XX mới có khoảng 6 đầu sách thì hơn chục năm đầu  thế kỷ XXI đã có trên chục cuốn xuất bản... Các nghiên cứu trên phác họa bức tranh lịch sử văn học Nhật Bản qua các giai đoạn, nghiên cứu thể loại thơ, văn xuôi và những vấn đề chung hoặc đi sâu vào tác giả, tác phẩm.

Theo tìm hiểu của chúng tôi, có khoảng 5 cuốn nghiên cứu về thơ, 5 cuốn về văn xuôi và 9 cuốn về những vấn đề chung.

- Nghiên cứu về lịch sử văn học và những vấn đề chung  là những cuốn: Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868 của Nhật Chiêu (Nxb Giáo dục, 2000), Văn học Nhật Bản (Nhiều tác giả, Nxb Thông tin KHXH, 1998), Hợp tuyển văn học Nhật Bản của Mai Liên (Nxb Lao động & TT văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2010), Tổng quan  lịch sử văn học Nhật Bản của Nguyễn Nam Trân (Nxb Giáo dục Việt Nam, 2011), Văn học cận đại Đông Á, từ góc nhìn so sánh do Đoàn Lê Giang chủ biên (Nxb Tổng hợp Hồ Chí Minh, 2011)... Những công trình này đã  phác họa bức tranh văn học Nhât Bản từ khởi thủy đến cận, hiện đại, cung cấp cho người đọc có cái nhìn khá toàn diện về văn học xứ Phù Tang.

- Trong số những công trình nghiên cứu về thơ, văn xuôi Nhật Bản có thể kể một số cuốn như: Basho và thơ Haiku của Nhật Chiêu (Nxb Văn học, Trường ĐHTH Hồ Chí Minh), Thơ ca Nhật Bản (Nxb Giáo dục, 1998), Truyện ngắn H.Murakami của Hoàng Long (Nxb Tổng hợp Hồ Chí Minh, 2006), Văn hóa Nhật Bản và Yasunari Kawabata của Đào Thị Thu Hằng (Nxb Giáo dục, 2007), Haiku - Hoa thời gian của Lê Từ Hiển và Lưu Đức Trung (Nxb Giáo dục, 2007), Những cây bút kiệt xuất trong văn học Nhật Bản hiện đại của Nguyễn Tuấn Khanh (Nxb Khoa học xã hội, 2011), Y.Kawabata - Cuộc đời và tác phẩm của Lưu Đức Trung (Nxb Giáo dục, 1997)... Ngoài ra ,trong một số sách về văn chương Phương Đông hoặc nhìn từ góc độ văn hóa, các tác giả cũng dành nhiều  phần bàn về văn học Nhật  Bản .Đó là các cuốn : Câu chuyện văn chương Phương Đông của Nhật Chiêu (Nxb Giáo dục 1998), Nhật Bản trong chiếc gương soi (Nxb Giáo dục, 1999), Bước vào vườn hoa văn học Châu Á của Lưu Đức Trung (Nxb Giáo dục, 2003), Dạo chơi vườn văn Nhật Bản của Hữu Ngọc (Nxb Văn nghệ, 2006)... Như vậy, phần lớn các sách trên  chủ yếu nghiên cứu về Basho và Y.Kawabata là những đỉnh cao về thơ và văn xuôi.

3.2. Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, từ cuối thế kỷ XX đến những năm đầu thế kỷ XXI, đã có trên 150 bài viết nghiên cứu về văn học Nhật Bản ở các thể loại. Những tạp chí Nghiên cứu văn học, Nghiên cứu Đông Bắc Á, Văn học nước ngoài, Văn hóa dân gian, Văn hóa nghệ thuật, Sông Hương; Tạp chí khoa học các trường đại học, Viện; các báo đăng tải nhiều nhất những bài của các tác giả. Trong tổng số các bài nghiên cứu  tập trung vào những vấn đề chung, nghiên cứu so sánh, nghiên cứu thể loại và tác giả...

- Nghiên cứu về những vấn đề chung của văn học Nhật Bản, các tác giả đã có cái nhìn tổng quát, chỉ ra những đặc điểm của nền văn học này... Tác giả Đoàn Lê Giang  trong những bài viết của mình (So sánh quan niệm văn học trong văn học cổ điển Việt Nam và Nhật Bản - Nghiên cứu văn học số 9/1997; Con đường hiện đại hóa văn học của các nước khu vực văn hóa chữ Hán - Nghiên cứu văn học số 7/2010; Nghiên cứu văn học Việt Nam và Nhật Bản trong bối cảnh Đông Á - Nghiên cứu văn học số 2/2012...), đã nêu lên và khẳng định những đặc điểm mang tính khu biệt và tính chung của nền văn học Nhật Bản. Đây là nhóm bài viết mang tính khái quát và tính lý luận cao, nêu lên quy luật của văn học các nước trong khối “đồng văn”. Nhiều tác giả đã chỉ ra những đặc điểm, khuynh hướng, tác gia tiêu biểu của văn học Nhật Bản trong các bài: Một số đặc trưng của văn học Nhật Bản (Trần Hải Yến - Nghiên cứu Nhật Bản số tháng 8/1999 ), Khái quát một trăm năm văn học Nhật Bản hiện đại qua những cây bút kiệt xuất (Nguyễn Tuấn Khanh - Nghiên cứu Đông Bắc Á số 9/2007), Những biểu hiện của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong văn học Nhật Bản đương đại (Lê Ngọc Phương ), Các khuynh hướng phản tự nhiên trong văn học Nhật Bản  đầu thế kỷ XX (Khương Việt Hà )...

- Hướng nghiên cứu so sánh văn học ở cấp độ thể loại, tác giả, tác phẩm và vấn đề cũng được nhiều bài viết bàn đến. Có gần hai chục bài so sánh về thơ, truyện  dân gian,  nhân vật, trong đó nhiều hơn cả là về thơ haiku và truyện cổ tích. Nhìn thơ haiku trong sự đối sánh với lục bát, tuyệt cú và sịjo thể hiện ở các bài: Phác thảo những nét tương đồng  và dị biệt của ba thể thơ:tuyệt cú, haiku và lục bát của Nguyễn Thị Bích Hải (Trong cuốn “Văn học so sánh...”, 2005), Những nét tương đồng và dị biệt của thơ sịjo (Hàn Quốc) và thơ haiku (Nhật Bản) của Hà Văn Lưỡng (Nghiên cứu Đông Bắc Á số 10/2009 ), Haiku -Lục bát, một vài ghi nhận (Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nghiên cứu văn học số2/2012 ). So sánh từ cấp độ nhân vật, môtip giữa văn học Nhật Bản và Việt Nam được bàn đến trong các bài: Truyện ông Ngâu bà Ngâu ở Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản của Nguyễn Bích Hà (T/C Văn hóa dân gian số 3/2001 ), Nghiên cứu so sánh môtip thưởng phạt qua truyện cổ tích Việt Nam và Nhật Bản của Nguyễn Thị Nguyệt, Vài nét so sánh về nhân vật tha hóa trong truyện ngắn của Akutagawa (Nhật Bản ) và của Nam Cao (Việt Nam) của Phạm Thị Thu (Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 4/2009)...

- Nếu nhìn từ góc độ thể loại và thời kỳ văn học, chúng tôi thấy rằng, các bài viết về văn học Nhật bản ở thể lọai văn xuôi và giai đoạn văn học hiện đại có số lượng nhiều hơn cả. Trong số trên một trăm bài nghiên cứu, có hơn 70 bài về văn xuôi, gần ba chục bài về thơ, khoảng chục bài về văn học dân gian và một vài bài về kịch.

+ Ở thể loại thơ, các tác giả tập trung nghiên cứu về thơ haiku và Basho với số lượng gần hai chục bài. Đó là những bài: Một số đặc điểm của thơ Haiku Nhật Bản (Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 4/2001), Thơ haiku Nhật Bản viết về mùa xuân (Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 2/2004) của Hà Văn Lưỡng; Tìm hiểu thơ haiku Nhật Bản của Nhật Chiêu (Sông Hương, số 21/1986); Cấu trúc nghệ thuật thơ haiku (Nghiên cứu Văn học, số 11/1999) và Matsuo Basho - nhà thơ lớn của thể thơ haiku (Nghiên cứu Nhật Bản, số 3/1995) của Nguyễn Tuấn Khanh... Những nghiên cứu trên đã chỉ ra những đặc điểm nội dung và nghệ thuật của thể thơ haiku Nhật Bản gắn với thi bá nổi tiếng M.Basho - Một tác gia lớn của văn chương Nhật Bản.

+ Trong số hơn bảy chục bài viết về các tác giả văn xuôi thời cận, hiện đại tập trung chủ yếu vào Y.Kawabata (35 bài), H.Murakami (24 bài), K.Oe (5 bài) và gần chục bài về các tác giả khác.

Viết về Y.Kawabata, tác giả Hà Văn Lưỡng có 8 bài, Đào Thị Thu Hằng 5 bài, Trần Thị Tố Loan, Khương Việt Hà, Mai Liên... mỗi người trên 2 bài và một số bài của các tác giả khác. Chúng tôi nêu một số bài như: Yếu tố kỳ ảo trong sáng tác của Y.Kawabata  ,nhìn từ phương thức biểu hiện; Đặc điểm truyện ngắn Y.Kawabata, nhìn từ góc độ thi pháp (Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 11/2006 và tháng 5/2007) của Hà Văn Lưỡng;  Yasunari Kawabata, giữa dòng chảy Đông Tây (Nghiên cứu văn học, số 7/2005), Kiểu nhân vật “lữ khách đi tìm cái đẹp” trong sáng tác của Y.Kawabata (Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 5/2006) của Đào Thị Thu Hằng. Tác giả Trần Thị Tố Loan với bài Cái đẹp truyên thống Nhật Bản trong sáng tác của Y.Kawabata (Nghiên cứu  Đông Bắc Á, số 2/2006) và Biểu tượng trong tiểu thuyết Y.Kawabata  (Văn học nước ngoài số 1+2/2012).  Từ một góc nhìn khác, Lưu Đức Trung có bài Thi pháp tiểu thuyết Yasunari  Kawabata, nhà văn lớn Nhật Bản (Nghiên cứu văn học số 9/1999) và Kawabata và thẩm mỹ chiếc gương soi (Nghiên cứu văn học  số 3/2000) của Nhật Chiêu... Những bài nghiên cứu trên mà chúng tôi điểm qua đều đi vào khai  thác những đặc điểm nghệ thuật đặc sắc trong tiểu thuyết và truyện ngắn của Y.Kawabata, nhằm khẳng định tài năng văn chương của ông - nhà văn đoạt giải Nobel văn học đầu tiên của Nhật Bản (1968).

Nhà văn đương đại Haruki Murakami với hầu hết các sáng tác đã được dịch ở Việt Nam chỉ xếp sau Y.Kawabata về số lượng bài nghiên cứu. Với trên hai chục bài viết đăng  Tạp chí Văn học, Văn học nước ngoài, Nghiên cứu Đông Bắc Á, Sông Hương và Tạp chí khoa học các trường đại học.., các tác giả làm nổi bật những đặc điểm nội dung và nghệ thuật, khẳng định những đóng góp của H.Murakami đối với nghệ thuật văn chương nói chung và văn học Nhật Bản nói riêng. Nghiên cứu về những biểu hiện của yếu tố kỳ ảo, giấc mơ, những dấu ấn nghệ thuật hậu hiện đại trong sáng tác của H.Murakami tiêu biểu là những bài: Nghệ thuật xây dựng giấc mơ trong “Kapka bên bờ biển” của H.Murakami (Nguyễn Hồng Anh - Văn học nước ngoài số 1+2/2012), Một số yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn của H.Murakami (Hà Văn Lưỡng - Nghiên cứu  Đông Bắc Á số 9/2012 ), Yếu tố hậu hiện đại trong “Biên niên ký chim vặn dây cót” của H.Murakami (Lê Thị Diễm Hằng - Tạp chí KH&GD -ĐHSP Huế số 2/2010)... Nhìn sáng tác của H.Murakami từ góc độ nhân vật, các motip phức cảm và cố mẫu, yếu tố sex... thể hiện qua các bài: Kiểu con người đa ngã trong tiểu thuyết “Người tình Sputnhik” của H.Murakami (Trần Thị Tố Loan - Văn học nước ngoài, số 3/2010 ), Phức cảm Gẹnji trong tiểu thuyết “Kapka bên bờ biển” của H.Murakami (Nguyễn Thị Bích Thủy - Nghiên cứu văn học, số 5/2010 ), Cố mẫu Shadow và motip cuộc hành trình trong tiểu thuyết “Người tình Sputnhik” của Haruki Murakami (Ngô Viết Hoàn - Nghiên cứu  Đông Bắc Á số 2/2012), Phản ứng của giới trẻ và yếu tố sex trong tiểu thuyết “Rừng Nauy” (Vũ  Thị Thu Hà - Nghiên cứu văn học, số 12/20080). Như vậy, sáng tác của H.Murakami ở Việt Nam được nghiên cứu khá đầy đủ và toàn diện, nêu bật những nét cốt lõi trong nghệ thuật của nhà văn.

Các tác giả văn xuôi khác như  O.Dazai, Ph.Shimei, R.Akutagawa, K.Oe, Y.Banana... cũng được nghiên cứu trong các bài viết: Oe Kenzaburo và nỗi đau nhân loại trong “Một nỗi đau riêng” ( Đào Thị Thu Hằng - Nghiên cứu văn học, số 4/2007), Trạng thái  hiện sinh của con người trong tiểu thuyết “Một nỗi đau riêng” của Oe Kenzaburo (Ôn Thị Mỹ Linh - Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 9/2008 ), Cuộc truy vấn về nhân sinh trong “Bướm trắng”  của Nhất Linh và “Thất lạc cõi người” của Dazai Osamu  (Nguyễn Ngọc Bảo Trâm - Nghiên cứu văn học, số 3/2012), và Yoshimoto Banana - Nhà văn của lòng nhân ái và những tổn thương tinh thần (Lưu Thị Thu Thủy - Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 2/2009)...

+ Theo tìm hiểu của chúng tôi, đến nay có khoảng trên 15 bài nghiên cứu về văn học dân gian Nhật Bản của nhiều tác giả đã được đăng ở tạp chí chuyên ngành và các tạp chí khác. So với số lượng tác phẩm thể loại này đã được dịch ở Việt Nam thì số bài nghiên cứu hãy còn ít, chưa tương xứng. Nhìn chung, các bài viết đã nêu lên những vấn đề chung, cụ thể thuộc đặc trưng thể loại và về nội dung, nghệ thuật của truyện cổ, truyền thuyết, thần thoại... Nhiều bài tập trung nghiên cứu truyện cổ như: Nhật Bản - đất  nước của nguồn truyện cổ  của Nguyễn Bích Hà (Văn hóa nghệ thuật, số 5/1998), Tìm hiểu một số motip phổ biến trong truyện cổ tích Nhật Bản (Lê Thị Quỳnh Hảo - Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 3/2010), Một số yếu tố thần kỳ trong truyện cổ Nhật bản, từ góc nhìn thể loại (Hà Văn Lưỡng - Nghiên cứu  Đông Bắc Á, số 4/2013)... Một số bài viết về tục ngữ, truyền thuyết Nhật Bản đã nêu lên những đặc điểm cơ bản mang tính dân tộc và quốc tế của thể loại này như: Tục ngữ Nhật Bản với người phụ nữ của Nguyễn Thị Hồng Thu (Văn hóa nghệ thuật, số 4/2001) và Thể  loại truyền thuyết dưới mắt các nhà nghiên cứu  Folklore Nhật Bản và Trung Quốc của Kiều Thu Hoạch (Nghiên cứu văn học, số 2/2000). Ngoài ra, có thể kể đến các bài: “Nhật Bản linh dị ký” trong nghiên cứu so sánh với truyện cổ Việt Nam  (Vũ Tuyết Loan ), Ngược dòng lich sử, tìm hiểu cội nguồn, bản lĩnh, bản sắc dân tộc Nhật qua thư tịch và truyên cổ dân gian của Bùi Văn Ngân (Nghiên cứu văn học, số 1/1999)... Bên cạnh đó, trên một số trang mạng cũng đăng tải khá nhiều bài về văn học Nhật Bản như: Murakami - người khổng lồ của văn học hậu chiến của Thanh Huyền (http://www...evan.vnexpress.net/Murakami...), Murakami Haruki - tiểu thuyết gia hiện đại Nhật Bản của Phạm Vũ Thịnh (http://www.hoplum.org/HL75phamvuthinh.htm)...

Trên đây, với số lượng thống kê chưa đầy đủ, từ góc nhìn thể loại và lịch đại, chúng tôi khái quát những nét cơ bản bức tranh nghiên cứu văn học Nhật bản trong vài chục năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI.

3.3. Bên cạnh những nghiên cứu của các tác giả Việt Nam, trong mấy chục năm qua cũng có khá nhiều sách, bài viết của tác giả nước ngoài được dịch ở Việt Nam. Theo chúng tôi, đây cũng là một kênh thông tin để người đọc nước ta biết và hiểu sâu sắc hơn  nền văn học đặc sắc này của Châu Á.

Đến nay, có khoảng trên chục bài về văn học Nhật bản của tác giả nước ngoài (chủ yếu là Nga, Nhật, Anh, Mỹ) được dịch đăng trên các tạp chí. Ngoài cuốn sách Văn học Nhật Bản từ cổ đại đến cận đại (Nxb Văn hóa thông tin, 1999), N.I .Konrat  (Nga) có 3 bài viết : Kojiki - Sự khởi đầu của văn học Nhật Bản (Nghiên cứu văn học, số 1/1995), Anh hùng ca phong kiến Nhật Bản và võ sĩ đạo (Nghiên cứu văn học, số 4/1995) và Khái lược văn học Nhật Bản (Nghiên cứu văn học, số 5/1997). Tác giả N.T .Phêdorenko có nhiều bài về văn học Nhật Bản, đặc biệt là một bài dài đăng ở Tạp chí Văn học nước ngoài về Y.Kawabata  (Kawabata - con mắt nhìn thấu cái đẹp, Văn học nước ngoài, số 4/1999). Nghiên cứu về những vấn đề khác là các bài: Sân khấu Nhật Bản hiện đại của Takasi Nomura (Báo Văn nghệ, số 2/1993), Sức mạnh siêu nhiên trong truyền thuyết Nhật Bản của Norman và A.Rubin (Văn hóa nghệ thuật, số 6/2003), Thiền trong thơ Haiku Nhật Bản của T.P.Grigorieva  (Nghiên cứu văn học, số 4/1992) ...

Mặc dù chưa nhiều, nhưng các dịch giả Việt Nam đã góp phần chuyển dịch các bài viết trên qua tiếng Việt nhằm cung cấp thêm thông tin, tư liệu cho người đọc nước ta về văn học Nhật Bản.

4. Một số kết luận và kiến nghị  

Qua bức tranh tiếp nhận văn học Nhật Bản ở Việt Nam trên phương diện dịch thuật và nghiên cứu trong mấy chục năm cuối thế kỷ XX đến những năm đầu thế kỷ XXI, chúng tôi có một số đánh giá và kiến nghị như sau:

- Với sự nỗ lực của các dịch giả, các nhà nghiên cứu (trong và ngoài nước), các nhà xuất bản, tạp chí, báo chí, văn học Nhật Bản được giới thiệu ở Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua, đặc biệt ba chục năm gần đây một cách khá đầy đủ, toàn diện. Chính công việc này đã tạo điều kiện thuận lợi để người đọc nước ta tiếp xúc, thưởng thức và hiểu sâu sắc hơn về đất nước, con người và những giá trị tinh thần đặc sắc của văn học xứ sở mặt trời mọc. Nhìn chung, tiến trình lịch sử văn học Nhật Bản, những thành tựu lớn của nền văn học này đã được người đọc lĩnh hội một cách hệ thống.

- Việc dịch thuật và nghiên cứu văn học Nhật Bản thời gian qua chủ yếu vẫn chú trọng  mảng văn xuôi hiện đại và thơ haiku. Điều đó đúng, nhưng chưa đầy đủ. Ngoài tác giả Y.Kawabata, H.Murakami, K.Oe, một số nhà văn lớn khác như M.Ogai, O.Dazai... dịch và nghiên cứu còn quá ít. Những nhà văn đương đại dịch nhiều (R.Murakami, Y.Banana, Y.Amy, Y.Ogawa...) nhưng dường như còn thiếu vắng các bài viết. Thể thơ haiku dịch và nghiên cứu khá đầy đủ, nhưng mảng thơ hiện đại dịch chưa nhiều. Những tác phẩm như Người đẹp Phương Đông (1888) của Tokai Sashi, Cô vũ nữ (1890) của Mori Ogai... và sách nghiên cứu Chủ nghĩa tự nhiên và văn đàn hôm nay (1907) của Sh.Hogetshu, Tôi thuộc phái hoài nghi (1908) của Futabatei Shimei, Bàn về chủ nghĩa tự nhiên (1908) của Ikuta Choko... chưa được dịch.

- Thể loại sân khấu (kịch Noh, Kabuki...), thơ renga chưa chú trọng nên dịch không đáng kể. Đây cũng là một “chỗ trống” đáng tiếc đối với người đọc nước ta về thể loại văn học này.

- Trong việc dịch và nghiên cứu, chưa có sự cân đối giữa văn học các thời kỳ. Nếu văn học hiện đại chú ý nhiều hơn cả, thì văn học cổ, trung đại và cận đại dịch chưa nhiều.  Đội ngũ dịch thuật còn mỏng mà chủ yếu dịch qua bản tiếng Anh, Pháp, Nga, Trung còn dịch từ bản Nhật ngữ xuất hiện còn hạn chế.

- Theo chúng tôi, để tiếp tục phổ biến văn học Nhật bản đến với người đọc Việt Nam, thời gian tới  phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các dịch giả, nhà nghiên cứu, xuất bản... để dịch và giới thiệu ngày càng nhiều tác phẩm hơn nữa. Tổ chức nhiều cuộc Hội thảo cấp Quốc gia, Quốc tế, mở rộng giao lưu Nhật -Việt, tăng cường quảng bá văn học Nhật Bản trên phương tiện thông tin đại chúng... Các cơ quan Nhà nước, các tổ chức văn hóa, trung tâm góp phần hoàn thành thủ tục bản quyền, trợ giúp pháp lý và tài trợ để có  nhiều tác phẩm văn học Nhật Bản đến với độc giả Việt Nam. Chúng tôi tin rằng, trong tương lai, văn học Nhật Bản cũng như văn học một số nước khác sẽ tiếp tục phổ biến ở nước ta sâu rộng hơn.

H.V.L







 

Tác giả: Hà Văn Lưỡng
Các bài mới
Các bài đã đăng